TIN VUIFlowchart: Document: Số 
147
20/07/2008
        

 

 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

 

 

 

 

 

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

MỤC LỤC

 Chúa Nhật XVII Thường Niên A..

PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}..

DÁM LIỀU..

TU ĐỨC..

CHA MẸ CÔNG GIÁO GIÁO DỤC CON CÁI.

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha Bênêđitô sẽ gặp các linh mục giáo phận Bolzano vào ngày 6 tháng 8, đang khi nghỉ hè tại Bressanone.

Những sinh hoạt sắp tới trong mùa hè của Đức Thánh Cha Bênêđitô

Phong Trào Tổ Ấm (Focolare) tiếp tục đặc sủng yêu thương hiệp nhất và đối thoại

BẾ MỤC NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ  2008.

Việc chuẩn bị Ngày Quốc Tế Giới Trẻ sẽ được tổ chức tại Madrid vào năm 2011.

Vài Nhận Định của Linh Mục Fêdêricô Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, về Ngày Quốc Tế Giới Trẻ vừa qua tại Sydney.

Vài con số về Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2008 tại Sydney.

Những hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha tại Sydney.

Ðức Thánh Cha cử hành Thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ 2008.

HÀNH TRÌNH VỂ PHỐ HIẾN, CHIẾC NÔI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM...

Thánh Lễ Tạ Ơn kết thúc Lớp Ca Trưởng Cấp 3 Tại Sài Gòn.

Chương trình phát thanh của giáo xứ giúp người Công giáo làm giàu kiến thức về Giáo Hội

Thánh Lễ An Táng Cha Cố Inhaxio Mai Xuân Hậu.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

LÁ THƯ MỤC TỬ CỦA ĐỨC HỒNG Y, TỔNG GIÁM MỤC SÀI GÒN..

CÂU VĂN QUỐC NGỮ CỔ XƯA NHẤT.

HAI CÂU CHUYỆN TỪ ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI.

TIẾT KIỆM...

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008.

Bài 2:

CUỘC HOÁN CẢI CỦA THÁNH PHAO-LÔ..

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Sức khoẻ gia đình :

Người cao tuổi và những hội chứng thường gặp.

TRẺ CON KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI LỚN..

ĐỌC SÁCH..

CẢM HÓA THIÊNG LIÊNG..

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật XVII Thường Niên A

PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}

"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.

{"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".

Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".}

Đó là lời Chúa.

DÁM LIỀU

 

Dân gian có câu : “Có chí làm quan, có gan làu giàu”.

 

Ngày xưa, vào thời Chiến quốc bên Trung Hoa, có một người tên họ Hòa, người nước Sở tìm được ngọc quí, đem về dâng lên Lê Vương. Lê Vương cho mời thợ ngọc đến xem, thợ ngọc nói : là đá, chứ không phải là ngọc. Vua giận lắm, khép tội kinh quân, sai chặt chân trái làm gương. Khi Vũ Vương nối ngôi, họ Hòa lại đem ngọc dâng. Thợ ngọc nói : là đá, chứ không phải là ngọc. Vua giận, sai chặt chân phải. Đến khi Văn Vương lên ngôi, họ Hòa ôm ngọc đến cung van khóc. Vua sai người đến hỏi, họ Hòa thưa : “Tôi không khóc vì hai chân bị chặt, nhưng vì thương ngọc mà bảo là đá, nói đúng mà bảo là sai”. Vua truyền xét kỹ lại. Khi đục lớp đá ngoài thì thấy quả thật có viên ngọc quí, dùng ngọc thay đèn soi sáng được. Về sau vua Tần Thủy Hoàng lên ngôi, liền sai thợ chạm trổ thành ấn ngọc.

 

Từ Chúa Nhật 15 TN A tới Chúa nhật này, Phụng vụ trích dẫn một loạt dụ ngôn. Chúa Nhật 15 A : Dụ ngôn người gieo giống (Mt 13,1-23). Chúa nhật 16 A: Dụ ngôn cỏ lòng và hạt cải, nắm men (Mt 13, 24-32). Chúa nhật hôm nay 17 A: Dụ ngôn kho báu, đá ngọc quí và lưới cá (Mt 13, 44-52).

 

Đây là một loạt dụ ngôn trình bày cho dân chúng về tổ chức và sinh hoạt nước trời, nên thường quen gọi là các dụ ngôn Nước Trời.

 

Ba dụ ngôn trong Chúa nhật hôm nay, tôi để ý tới hai dụ ngôn đầu kho báu chôn dấu và ngọc trong đá.

 

Không phải Nước Trời là kho báu, là viên ngọc, nhưng dụ ngôn có ý nhấn mạnh đến những điều xảy ra khi người ta tìm được hay là khám phá ra được. Nước Trời khi chưa biết thì chưa quí nhưng một khi tìm ra điều bí nhiệm rồi thì thấy quí giá vô cùng và thôi thúc chiếm làm sở hữu.

 

Hai dụ ngôn này không nói tới may mắn, nhưng tôi vẫn nghĩ, kho tàng đã chôn mà còn dấy kỹ, không phải ai cũng đào được Viên ngọc quí trong đá, không phải ai cũng nhận ra được, người chuyên môn còn lầm, nhất là trong thời buổi mọi sự đều coi như thật, nên cả hai người này một phần gặp may mắn, nhưng chắc chắn không loại trừ việc đã học hỏi, tìm ra, đồng thời phải khen hai tay này liều; dám bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng, bán mọi của cải mà mua viên ngọc đó.

 

Cuộc sống ngoài xã hội không liều không thắng. Đời sống trong đạo không nên thánh khi không dám liều.

 

Ngày tĩnh tâm 10-09 tại Darjeering, Chị Têrêsa nghe được tiếng Chúa :“Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy, hãy đi giúp đỡ những kẻ bần cùng và sống cùng họ” lời nói đó như ánh sáng chỉ đường, như mục tiêu phải đạt, như viên ngọc quí ẩn trong đá, sau khi phát hiện thì phải chiếm hữu, như kho tàng chôn trong ruộng Hội Thánh khi tìm ra bằng mọi giá phải lo cho được bằng khoán đỏ. Chị cầu nguyện, bàn hỏi với bề trên và cuối cùng liều mua. Tháng 8 năm 1948, Chị Têrêsa được phép rời cộng đoàn Lorette. Trước đó Chị đã phải liều bán tất cả như : chia tay với các chị em trong dòng, rời bỏ tu phục Lorette mặc chiếc sari rẻ tiền màu trắng viền xanh. Thời đó, Ấn Độ sắp được độc lập, chị Têrêsa là người Ấn, nên việc phân biệt sắc tộc không phải là vấn đề không tính đến. Rồi phép tắc trong tổ chức của nhà dòng theo luật…đòi phải vượt qua. Tâm lý phụ nữ thích yên ổn, sống tình cảm, việc từ giã tất cả  để đi đến một nơi tương lai chưa rõ, thiết tưởng rất can đảm và rất liều.

 

Cuối cùng chị đã mua được “viên ngọc quí “ .Sau khi đã mua được, chị lăn xả vào đời, cứu giúp những kẻ bần cùng. Bao con người bị bỏ rơi, nhờ tấm lòng từ mẫu của Chị, họ đã hưởng một cái chết an bình. Cả thế giới đón nhận chị như một người mẹ của những con người bị loại trừ. Bao bút mực nói về tấm lòng từ mẫu của Chị. Sự thành công của chị Têrêsa do chị dám liều.

 

Sự liều của Mẹ Têrêsa Calcutta là sự liều có bản lĩnh vì đã đi qua quá trình bao ngày cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, bàn hỏi với các vị bề trên.

 

Hai dụ ngôn này tạo nên nhiều câu hỏi nơi tôi : Tại sao tôi cũng theo đạo năm sáu mươi năm rồi, cũng tu trì xấp xỉ ngoài ba thập niên rồi mà vẫn còn ì ạch trong sự tầm thường tham sân si, thậm chí cách đối nhân xử thế còn thua một người không tu…Phải chăng tôi chưa tìm ra kho tàng chôn trong đạo, ngọc quí ẩn trong đá Tin Mừng ?

 

Muốn khám phá Nước Trời, cũng phải học hỏi, mất nhiều công sức tìm tòi trong suy gẫm và cầu nguyện. Miếng bánh sữa không mất tiền mua chỉ có trong bẫy chuột. Sự dễ dàng chẳng bao giờ đến lượt tôi.

Đồng thời khôn ngoan chọn lựa. Đời sống ngày nay đem đến đủ mọi giá trị  thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới biển gom nhiều thứ cá. Phân định chọn lựa, như ngư phủ biết chọn cá tốt bỏ cá xấu.

 

Một khi tìm thấy, cũng còn phải dám :

 

- Dấn thân tuyệt đối : bỏ tất cả để chỉ có một.

- Dấn thân quyết liệt : bán tất cả để không thể quay trở lại.

 

Sự khám phá Nước Trời giúp cho tôi khỏi rơi vào cuộc sống tầm thường mà vươn lên đỉnh cao của người có đạo.

 

Lm. Antôn Nguyễn Đình Khuyến

Giáo phận Long Xuyên

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

CHA MẸ CÔNG GIÁO GIÁO DỤC CON CÁI

Sắp tới lễ kính hai thánh Gioakim và Anna (26/7). Dịp này, Hội Thánh tôn vinh hai đấng đã là cha là mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Lễ này cũng là dịp nhắc nhở các bậc làm cha làm mẹ phải biết giáo dục con cái.

Xin nhấn mạnh đến "phải biết giáo dục con cái", nghĩa là phải giáo dục con cái sao cho đúng tinh thần Phúc Âm.

Vấn đề rất mênh mông. Tôi chỉ xin nêu lên mấy điểm rút ra từ kinh nghiệm.

Trước hết, nên nhớ rằng: Giáo dục con cái cốt ở sự giúp cho con cái mình sống càng ngày càng xứng đáng người con của Chúa hơn.

Sự giúp đó là lời dạy dỗ, gương sáng, tạo môi trường thuận lợi, nhất là kết hợp với ơn Chúa.

Tất cả sẽ giúp cho con cái thấm nhuần những lẽ sống sau đây:


1/ Người con Chúa tin Đấng tạo dựng nên mình là Thiên Chúa tình yêu

Chúa muốn mọi con Chúa cũng phần nào trở nên giống Chúa là tình yêu. Càng giống Chúa là tình yêu càng sẽ được chia sẻ hạnh phúc của Chúa là tình yêu.

Người con Chúa là con người đầy ắp tình yêu của Chúa. Tình yêu cao thiêng đó sẽ đổi mới con người. Dần dần sẽ thấy như có một con người bên trong lớn mạnh. Con người bên trong mang sự sống Chúa Giêsu.

Muốn được như vậy, người con Chúa phải liên hệ với Chúa một cách gần gũi. Bằng cầu nguyện, gẫm suy Lời Chúa, đón nhận các bí tích. Như thể mình là cành, Chúa là thân cây. Mình phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Sự sống của Người, tình cảm của Người, ý muốn của Người được chia sẻ sang mỗi người con Chúa càng ngày càng nhiều, càng mạnh.


2/ Người con Chúa là người sống sự tự do của Chúa

Sự tự do nói đây là không bị các tính mê nết xấu và tội lỗi khống chế. Họ cũng bị cám dỗ, nhưng họ không sa chước cám dỗ. Họ sống trong thế gian có nhiều sức ép lôi kéo về đàng tà, nhưng họ không để mình bị làm nô lệ những quyền lực của sự ác.

Họ yêu thương trước những làn sóng hận thù ghen ghét. Họ tiết độ giữa những phong trào hưởng thụ.

Tự do của con cái Chúa là sự triển nở các hoa trái của Chúa Thánh Thần giữa một thế giới khô cằn.

Sự tự do của con cái Chúa là không đầu hàng hoàn cảnh phản nghịch Phúc Âm. Dù bị tước đoạt những của cải và địa vị, họ vẫn luôn biết tìm cách làm nhiều việc lành nhỏ mọn một cách thanh thản. Dù trong hoàn cảnh rất khó, họ vẫn mến Chúa, vẫn yêu người một cách chân thành.


3/ Người con Chúa là người thích phục vụ tha nhân trong yêu thương khiêm tốn

Khi phục vụ tha nhân vì động lực "vì là người con Chúa", người con Chúa sẽ mở lòng trí để nhìn thấy nhiều sáng kiến. Như cầu nguyện cho, đền tội thay, gieo rắc Lời Chúa bằng những cách trong tầm tay, giúp đỡ, chia sẻ, khích lệ, ủi an, khuyên bảo tế nhị.

Họ phục vụ mà không chờ đền đáp. Nếu bị chối từ cách này, họ vẫn tìm phục vụ bằng cách khác. Nếu bị hiểu lầm hoặc bị khinh chê, họ không vượt qua đau khổ cho bằng đón nhận đau đớn vào mình như một hy sinh.

Phục vụ tha nhân bằng yêu thương khiêm nhường đang là dấu chỉ để nhận ra ai là người con Chúa. Dấu chỉ đó được coi là tiêu chuẩn đúng. Dấu chỉ đó càng ngày càng làm xuất hiện những khuôn mặt đẹp bước ra từ những giai cấp thấp kém trong xã hội và trong Giáo Hội.


4/ Người con Chúa là người biết trả lời ơn Chúa gọi mình

Họ biết nhận ra sự Chúa đợi họ ở chỗ nào, để họ được hạnh phúc.

Họ nhận ra điều đó nhờ cầu nguyện, nhất là nhờ suy xét những biến cố xảy ra cho mình, từ tiêu cực đến tích cực, ngay trên chuỗi dài bậc thang đời sống, để đoán ra ý Chúa Quan Phòng đang muốn dẫn đưa đời họ về đâu. Những biến cố ấy là dấu Chúa gọi. Họ trả đáp với tất cả sự khiêm nhường và phó thác.

Mỗi chọn lựa của người con Chúa là một cách đáp lại ơn Chúa gọi mình. Đáp lại để chọn một bậc sống, đó là sống ơn gọi. Đáp lại để chọn một việc dấn thân, phục vụ, hay loan báo Tin Mừng, đó cũng là sống ơn gọi.


5/ Người con Chúa là người sống chiều kích đời đời một cách quyết liệt

Họ tin chắc chắn họ được tạo dựng nên, để đi vào cõi đời đời. Cõi ấy sẽ là thiên đàng dành cho những người sống xứng đáng là con của Chúa. Người con xứng đáng sẽ là kẻ sạch tội, hoặc chẳng may có tội thì đã sám hối trở về.

Để tới cõi đời đời, họ luôn cần đến ơn Chúa, cho từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây.

Họ bám vào Chúa. Và Chúa ở bên họ. Họ đón nhận ơn Chúa với lòng cảm tạ.

Cõi đời đời, sự sống đời đời, hạnh phúc đời đời, cái nhìn đó của đức tin mang chiều kích quyết định. Họ nhớ lại lời Chúa cảnh giác: "Nếu được mọi sự thế gian, mà đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào được ích gì" (Lc 9,25).

Trong chân lý đó, người con Chúa sẽ cân nhắc mọi việc mình làm, mọi lời mình nói, mọi sự mình muốn, cũng như mọi dự kiến của mình.

Lúc này hơn lúc nào hết, bổn phận của các phụ huynh công giáo trong việc giáo dục con cái đang là nỗi bức xúc lớn.

Nỗi bức xúc lớn hơn thiết tưởng chính là sự các bậc phụ huynh cần được đào tạo nhiều hơn trong việc tin mến Chúa, trong việc phục vụ yêu thương người khác, nhất là trong việc gỡ bỏ cái tôi đối nghịch với Chúa Thánh Thần.

 

GM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

MẤY ĐỊA CHỈ NÊN BIẾT  

Trong đạo có mấy địa chỉ nên biết. Vì ở mấy địa chỉ đó, mỗi người công giáo sẽ gặp được chính mình dưới nhiều diện mạo khác nhau.

Mấy địa chỉ đó là của cảnh nghèo. Tôi xin nêu lên một danh sách tạm.

I. MẤY ĐỊA CHỈ NÊN BIẾT

1/ Nạn nhân của những tai họa

Tai họa trên đời này thì đa dạng. Như hỏa hoạn, bão lụt, mất mùa, động đất, bệnh tật lâu dài, nhưng cái chết thảm thương… Tất cả những tai họa đều gây nên tang tóc, mất mát, suy sụp. Nạn nhân của những tai họa đều đau khổ. Họ là những địa chỉ chờ đợi tình xót thương.

Phúc Âm kể lại một số địa chỉ như thế đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. Như trường hợp bà góa thành Naim. Con trai duy nhất bà chết. Bà theo xác con ra huyệt với nước mắt chan hòa và lòng tan nát. Chúa Giêsu động lòng thương, đã an ủi bà. Người đã làm phép lạ cho đứa con trai đó sống lại (x. Lc 7, 11-17).

Hai chị em Matta và Maria có một người em trai là Ladarô. Anh này chết. Hai chị em khóc thương thảm thiết. Nghe tin, Chúa Giêsu đã từ xa đến địa chỉ đám tang. Người đã khóc, và đã làm phép lạ cho Ladarô sống lại (x. Ga11,1-44).

Chúa Giêsu đã xót thương những người đau khổ, cho dù đau khổ đó là rất riêng tư, chỉ đụng tới một vài cá nhân nghèo. Còn chúng ta thì sao? Địa chỉ có thể rất gần ta. Nhiều người đã bén nhạy, coi địa chỉ đó là nơi làm chứng “Thương người như thể thương thân”, và là nơi tuyên xưng mình là người của Thiên Chúa tình yêu.

2/ Nạn nhân của những bất bình đẳng

Trên đời này, tình trạng bất bình đẳng là bình thường. Đối xử bất bình đẳng, thậm chí bất công, vẫn còn khá phổ biến. Nạn nhân của những bất bình đẳng thường mang theo mình một thứ khổ đau không dễ nói ra. Họ là những người già cô đơn, những người bệnh tật nan y, những người nghèo túng không hy vọng, những ngừơi tội lỗi bị khinh khi. Họ làm nên một địa chỉ rộng. Người ta không muốn biết tới, nhưng Chúa lại tìm đến với lòng thương xót.

Phúc Âm kể lại chuyện Chúa Giêsu trong đền thờ. “Người thấy những ngừơi giàu sang đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà góa nghèo túng kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: Thầy bảo thật anh em: Bà góa này đã bỏ nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào dâng cúng. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21, 1-4). Bà góa nghèo đó là một nạn nhân của phân biệt đối đối xử. Nhưng Chúa Giêsu đã tôn vinh địa chỉ đó.

Dụ ngôn người chủ chiên bỏ 99 con chiên của mình, để đi tìm một con chiên lạc. Khi đã tìm được rồi, ông vác nó trên vai, về khoe với bạn bè. Chúa kết luận: “Tôi nói cho các ông hay, trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám  hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7).

Con chiên lạc là một địa chỉ người ta không muốn nói tới. Nhưng Chúa Giêsu đã tìm đến địa chỉ đó. Người quan tâm đến một con chiên lạc trở về hơn 99 con luôn trung thành.

Chớ chi những việc làm trên đây của Chúa Giêsu đổi mới cách đối xử của ta, để chúng ta biết tìm đến các địa chỉ bị loại trừ. Họ không xa chúng ta đâu.

3/ Nạn nhân của những tệ nạn xã hội

Những tệ nạn xã hội đáng ngại nhất là những gương xấu. Những gương xấu về thói quen sử dụng thời giờ một cách thoải mái, cốt để thỏa mãn những gì mình thích trong giây phút hiện tại. Tới đâu thì tới.

Những gương xấu về sự chia rẽ, mất tình phản nghĩa, chỉ vì tiền.

Thực rất đáng buồn là đang xuất hiện những gương xấu đưa người ta đến các thứ bệnh nguy hiểm như Sida, nghiện ngập. Một tệ hại đang lây lan là nếp sống không lương thiện, muốn có tiền bằng bất cứ cách nào, như bài bạc, hụi hè, lường gạt, vay mượn liều lĩnh. Cũng không thiếu gương xấu về cách làm tiền, cả dưới những hình thức coi như đạo đức. Nạn nhân thường dễ rơi vào cảnh nghèo dưới nhiều hình thức kinh khủng.

Chúa Giêsu phán: “Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây nên sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã” (Mt 18,7).

II. SỰ PHỨC TẠP NÊN BIẾT

Khi đến với các địa chỉ của cảnh nghèo, người ta có thể có những thái độ khác nhau, như: Thái độ giao tế xã hội, thái độ dửng dưng, thái độ cứu độ.

Thái độ đáng có và phải có là thái độ yêu thương. Yêu thương một cách khiêm nhường. Yêu thương một cách hy sinh quên mình với mục đích cứu độ.

Kinh nghiệm cho thấy: Để cứu kẻ nghèo, thì chính kẻ nghèo phải biết  cộng tác vào ơn cứu độ.

Sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Tình xót thương sẽ là một nơi cho ta ỷ lại.

Sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Tình xót thương cứu độ sẽ miễn trừ cho người nghèo khỏi phải phấn đấu. Nếu chính kẻ nghèo không tự cứu mình với tất cả khả năng mình có, thì lòng xót thương Chúa cũng sẽ trọng tự do của họ.

Cũng sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Cảnh nghèo sẽ chấm dứt với tình xót thương cứu độ. Bởi vì môi trường xã hội, môi trường văn hóa, môi trường gia đình, luôn có sức chi phối mạnh đến việc hình thành cảnh nghèo dưới những hình thức mới.

Cảnh nghèo vẫn sẽ luôn là vấn đề cần phải đặt ra cho chúng ta. Bởi vì lịch sử rất phức tạp. Chính vì tính cách phức tạp của vấn đề, nên xin phép được giới thiệu một địa chỉ nghèo để kết. Địa chỉ nghèo đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá.

Hãy chiêm ngắm Người. Người rất nghèo của cải, nhưng rất giàu tình yêu. Tình yêu của Người là tình yêu dâng hiến. Chính tình yêu dâng hiến này đã cứu chuộc nhân loại. Chúng ta được cứu độ nhờ Chúa Giêsu dâng hiến chính mình với biết bao hy sinh.

Xin hãy giải quyết vấn đề nghèo trước nhan Chúa Giêsu nghèo. Bất ngờ, ta sẽ khám phá thấy chính bản thân ta rất nghèo, cần được Chúa xót thương cứu độ.

 

GM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Đức Thánh Cha Bênêđitô sẽ gặp các linh mục giáo phận Bolzano vào ngày 6 tháng 8, đang khi nghỉ hè tại Bressanone

Roma (Apic 24 tháng 7): Thứ tư vừa qua, trong một chương trình phát thanh trên Đài Vatican, Đức Cha Wilhelm Egger, Giám Mục Giáo Phận Bolzano cho biết

Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI (ĐTC), trong thời gian nghỉ hè tại Bressanone, sẽ dành thời gian ngày thứ tư mùng 6 tháng 8, để gặp tất cả các linh mục trong giáo phận Bolzano.


Trong khi đó Linh Mục Lombardi cho biết thêm là ĐTC sẽ dùng thời gian rảnh rỗi trong những ngày nghỉ hè để viết tiếp phần II của tập sách “Chúa Giêsu thành Nazareth” đã được xuất bản phần I, trình bày Chúa Giêsu trong giai đoạn từ phép Rửa của Gioan cho đến biến cố Chúa Biến Hình. Ngoài ra, ĐTC cũng sẽ dùng thời giờ để hoàn tất thông điệp thứ ba về vấn đề xã hội, được mong đợi sẽ công bố vào mùa thu tới này.

Những sinh hoạt sắp tới trong mùa hè của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI

 

Vatican (Zenit 23 tháng 7): Từ chiều thứ hai 21 tháng 7, tức sau chuyến đi Australia về, cho đến thứ hai ngày 28 tháng 7, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI (ĐTC) cư ngụ tại Nhà Nghỉ Mát ở Castelgandolfo cách Roma khoảng 30 cây số về phía nam, và chuẩn bị cho chuyến tông du mới từ ngày 12 đến 15 tháng 9, tại hai địa điểm Paris và Lộ Đức, Pháp Quốc, nhân dịp kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức cho thánh nữ Bernadette.


Về chuyến tông du sắp đến này, chuyến tông du quốc tế lần thứ 10 của ĐTC, kể từ khi được chọn lên kế vị Thánh Phêrô nơi ngai toà Roma. Được biết, trong cuộc họp báo mới đây, Đức Hồng Y André Vingt-Trois, Tổng Giám Mục Paris, đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng giúp người Công Giáo Pháp “tìm hiểu sâu thêm về sự tham dự của giáo dân trong sinh hoạt của Giáo Hội” và về “ơn gọi phổ quát” của họ.


Từ thứ hai ngày 28 tháng 7 cho đến thứ hai 11 tháng 8, ĐTC sẽ đi nghỉ hè tại Bressanone, ở Miền Bắc Italia.Tại đây, ĐTC sẽ ngụ tại Đại Chủng Viện cổ kính của giáo phận, được xây cất cách đây 400 năm.


Trong ba năm qua, mỗi lần nghỉ hè, ĐTC Bênêđitô XVI lần theo bước chân của vị tiền nhiệm ngài, Đức Gioan Phaolô II. Hai lần nghỉ hè năm 2005 và năm 2006, Đức Bênêđitô XVI đến nghỉ tại Val d’ Aosta, và lần nghỉ hè năm 2007, ngài đến Lorenzago di Cadore, vùng Dolomite, thuộc dãi Núi Alpes, miền đông bắc Italia.


Lần nghỉ hè năm 2008 này, Đức Bênêđitô XVI chọn địa điểm rất quen thuộc với ngài, được ngài đến nhiều lần khi còn là giáo sư và hồng y Joseph Ratzinger. Đó là thị xã Bressanone với khoảng 20.000 dân cư, và ở vào vị thế cao hơn mặt biển 500m, cách biên giới Áo 50 cây số. Đa số dân cư vùng nầy nói tiếng Đức, dù thuộc lãnh thổ Italia.


Từ Bressanone, ĐTC có thể đến thăm một làng quê gần đó, tên là RIO di Pusteria, nơi mà bà ngoại của ĐTC, bà Maria Tauber-Peintner, đã sinh sống vào thời hậu bán thế kỷ 19. Bà sinh năm 1855, tại Rasa, gần Bressanone. Vào thời đó, vùng đất nầy thuộc lãnh thổ Áo.


Sau hai tuần nghỉ, ĐTC sẽ trở về cư ngụ tiếp tại Castelgandolfo trong suốt mùa hè này.


Ngày mai, thứ sáu 25 tháng 7, ĐTC sẽ tiếp thủ tướng Iraq, Ông Nouri Al-Maliki.


Xa hơn một chút, từ ngày 5 đến 26 tháng 10, ĐTC sẽ tham dự Khoá Họp Thường Kỳ của Thượng Hội Đổng Giám Mục Thế Giới, về đề tài: “Lời Chúa trong đời sống và trong sứ mạng của Giáo Hội.”

 

Phong Trào Tổ Ấm (Focolare) tiếp tục đặc sủng yêu thương hiệp nhất và đối thoại

 

Phỏng vấn chị Maria Voce, tân Chủ tịch phong trào Focolare Tổ Ấm

Ngày mùng 1-7-2008 516 đại điện của phong trào Focolare Tổ Ấm toàn thế giới đã bắt đầu đại hội để bầu tân chủ tịch phong trào và ban lãnh đạo mới thay thế chị Chiara Lubich qua đời ngày 14-3-2008 và ban lãnh đạo cũ, cũng như thảo luận các vấn đề liên quan tới cuộc sống của phong trào.

Trong điện tín gửi đại hội do Đức Hồng Y Tarcisio Bertone ký, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI khích lệ phong trào ”tiếp tục theo đuổi nỗ lực làm chứng tá phong phú cho Tin Mừng theo đặc sủng của chị Chiara Lubich”. Đức Thánh Cha cầu chúc biến cố quan trọng này khơi dậy các quyết tâm canh tân sự gắn bó với Chúa Kitô và tinh thần tông đồ hăng say quảng đại để trả lời cho các thách đố của thời đại ngay nay”.

Phát biểu trong buổi khai mạc đại hội linh mục Oreste Basso Đồng Chủ tịch của phong trào nói: ”Sau khi chị Chiara Lubich qua đời hơn 3 tháng nay, giờ đây mở ra cho phong trào do chị thành lập và hướng dẫn hơn 60 năm qua một thời điểm lịch sử, một thời đại mới và chưa được khám phá”.

Phong trào Focolare Tổ Ấm đã được chị Chiara Lubich thành lập năm 1943 giữa chết chóc và các đổ vỡ thương đau của thế chiến thứ II. Ngày nay phong trào hiện diện tại 182 quốc gia toàn thế giới với 141 ngàn thành viên, và 2 triệu 115 ngàn cảm tình viên, trong đó có 30 ngàn người thuộc các tôn giáo không Kitô. Đại hội sẽ kéo dài cho tới ngày 31 tháng 7 này.

Ngày mùng 7-7-2008 các đại biểu tham dự đại hội của phong trào đã bầu chị Maria Voce làm tân Chủ tịch phong trào Focolare Tổ Ấm thay thế chị Chiara Lubich qua đời ngày 14-3-2008.

Chị Maria Voce sinh năm 1937 tại Ajeloo Calabro, và đã là một trong các cộng sự viên thân tín nhất của chị Chiara Lubich. Chị đã gia nhập phong trào Tổ Ấm năm 1959 và được chị Chiara Lubich đặt tên mới là Emmaus. Chị đã học thần học và giáo luật và đã có kinh nghiệm dài về đại kết và liên tôn. Tân Phó chủ tịch là Linh Mục Giancarlo Faletti, từng là đồng trách nhiệm của phong trào Tổ Ấm Roma.

Chi Maria Voce cho biết chị rất là xúc động nhưng cũng bình an, vì biết rằng tinh thần của chị Chiara Lubich vẫn hiện diện mạnh mẽ trong phong trào. Và nhất là vì sáng nào chị cũng cầu nguyện, xin chị Chiara Lubich cho chị có được con tim của chị để yêu thương tất cả mọi người. Noi gương chị Chiara chị Maria cố gắng sống kết hiệp với Chúa và yêu thương tất cả mọi thực tại của phong trào để cùng nhau khám phá ra nét đặc thù giúp phong trào làm chứng hữu hiệu cho đặc sủng chị Chiara đã để lại.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn chị Maria Voce Tân chủ tịch phong trào Tổ Ấm.

Hỏi: Thưa chị Maria Voce, là Tân chủ tịch của phong trào Tổ Ấm, chị thừa hưởng một gia tài phong phú nhưng cũng nặng nề. Chị có sợ hãi không?

Đáp: Tôi không sợ hãi, bởi vì chị Chiara đã để lại cho chúng tôi một đặc sủng lớn của tình hiệp thông và hiệp nhất. Không phải tôi lãnh nhận gia tài này, mà là tất cả Phong Trào Tổ Ấm đã chọn tôi làm điểm hiệp nhất giữa mọi người. Đây là một trách nhiệm mà chúng tôi sẽ cùng nhau gánh vác. Tôi không cô đơn. Tôi cảm thấy mình phục vụ mọi thành phần của Phong Trào và cùng với họ phục vụ Giáo Hội và nhân loại ngày nay. Vì Thiên Chúa đã khơi dậy đặc sủng của Phong Trào cho mục đích này. Thiên Chúa đã ban đặc sủng hiệp nhất này cho chị Chiara và chị Chiara giao phó nó lại cho chúng tôi: trước hết là hiệp nhất trong Giáo Hội.

Hỏi: Giờ đây có gì thay đổi trong Phong Trào không thưa chị?

Đáp: Chị Chiara đã hướng dẫn Phong Trào tiến tới bằng cách luôn luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Vì thế tôi không biết sẽ có gì thay đổi hay không. Có điều chắc chắn là mục đích của Phong Trào Tổ Ấm sẽ không thay đổi. Cuộc sống của Phong Trào sẽ luôn luôn hướng tới tình huynh đệ đại đồng và sự hiệp nhất như di chúc Chúa Giêsu Kitô đã để lại, hiệp nhất giữa tất cả mọi thành phần trong gia đình nhân loại. Các phương thức có thể thay đổi vì phải chú ý tới các dấu chỉ thời đại, nhưng mục đích chính vẫn luôn luôn như thế không thay đổi: đó là tình yêu thương nhau khiến cho Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta.

Hỏi: Sự hiện diện của Chúa Giêsu là trung tâm của sự hiệp nhất: đây là ý niệm mạnh mẽ của các thành viên Phong Trào Tổ Ấm. Có phải nó là điểm phải luôn luôn nhắm tới hay không thưa chị?

Đáp: Chị Chiara nói rằng tất cả mọi điểm trong tinh thần tu đức của chúng tôi đều nhắm giúp chúng tôi tiến tới sự hiện diện của Chúa Giêsu đang ở giữa chúng tôi. Chúng tôi sống thánh ý của Thiên Chúa, vì khi sống theo thánh ý Thiên Chúa chúng tôi trở nên giống Ngài và vì thế chúng tôi được nối kết với nhau trong sự hiệp nhất đặc biệt này. Đàng khác, Phong Trào có tên gọi chính thức là ”Công trình của Đức Maria”, công trình của Đức Maria chính là trao ban Chúa Giêsu, như Mẹ đã làm trên bình diện vật lý, và chúng tôi làm trên bình diện tinh thần, nhưng mà một cách thực sự.

Hỏi: Phong Trào Tổ Ấm có mục đích tìm đối thoại, hiệp nhất và tình huynh đệ. Ngày nay đó là các điểm đặc biệt quan trọng giữa tín hữu của các tôn giáo khác nhau. Tình huynh đệ này dựa trên cái gì thưa chị?

Đáp: Cuộc đối thoại được vun trồng trên tất cả mọi bình diện, trong Giáo Hội và giữa các Giáo Hội với nhau. Một cách đặc biệt là giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau. Có biết bao nhiêu xung khắc viện cớ tôn giáo, nhưng trái lại chúng được định đoạt bởi các khát vọng quyền bính hay các lợi lộc kinh tế. Nhưng trái lại chúng ta thành công trong việc vượt thắng mọi khác biệt bằng cách rộng mở tâm lòng mình, bằng cách học hiểu biết nhau. Chúng ta sợ hãi người khác, bởi vì không biết rằng sợ hãi tạo ra các biên giới ngăn cách. Và điều này trái với ý muốn của Thiên Chúa.

Hỏi: Hội nghị thượng đỉnh của khối G8 mới kết thúc: đề tài nghèo đói chắc chắn không phải là điều xa lạ đối với Phong Trào Tổ Ấm. Phong trào có muốn nói gì với các cường quốc kinh tế không thưa chị?

Đáp: Khối G8 đã kết thúc hội nghị thượng đỉnh với một thất bại lớn. Chúng tôi đánh giá mọi hội nghị vì thiện chí nền tảng của chúng: nếu các cường quốc không được huy động bởi việc nghĩ tới người khác trước khi nghĩ tới chính họ, thì họ sẽ không bao giờ thành công. Chị Chiara đã luôn luôn nói với chúng tôi rằng các thiện ích không có chân. Nếu không có sự hiệp thông con tim, thì sẽ không tạo ra được sự hiệp thông các thiện ích. Các vấn đề sẽ được giải quyết, nếu người ta giải giáp con tim trước đã.

Hỏi: Phong Trào có đưa ra các chỉ thị nào liêện quan tới nạn nghèo túng và hố sâu ngăn cách giữa các quốc gia giầu và các nước nghèo trên thế giới không thưa chị?

Đáp: Chị Chiara và các chị em đầu tiên của Phong Trào đã bắt đầu cuộc mạo hiểm của Tin Mừng trong các khu xóm nghèo của thành phố Trento bị tàn phá vì chiến tranh. Các chị đã bắt đầu một sự hiệp thông tinh thần duy nhất. Các chị đã muốn giải quyết các vấn đề xã hội của thành phố. Và kinh nghiệm đầu tiên này đã trở thành một thói quen của toàn Phong Trào. Từ thói quen đó đã nảy sinh ra nền kinh tế của tình hiệp thông. Bên Brasil Phong Trào đã đề nghị sự hiệp thông giữa các giới doanh thương. Và hiện nay có rất nhiều hãng xưởng sống theo kiểu hiệp thông này, bằng cách sản xuất và dành ra một phần hữu ích cho các anh chị em nghèo. Và đây là một nền văn hóa mới, nền văn hóa của sự cho đi, trái ngược với nền văn hóa tiêu thụ và chiếm hữu.

Hỏi: Thưa chị, người trẻ thành viên của Phong Trào Tổ Ấm sống Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Sydney như thế nào?

Đáp: Sự kiện lý tưởng Kitô động viên được hàng hàng lớp lớp người trẻ thế giới cũng khiến cho chúng tôi kinh ngạc. Nó là một phong trào được dấy lên bởi đặc sủng của Đức Gioan Phaolô II, nhưng vượt xa hơn mối dây nối kết nó với Đức Thánh Cha, vì nó vẫn tiếp tục. Điều này có nghĩa là người trẻ thế giới không chỉ muốn gặp gỡ nhau, mà muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Các thành viên của chúng tôi cũng hiện diện và góp phần vào Ngày Quốc Tế Giới Trẻ để cho cuộc gặp gỡ này biến thành sự chung sống, được linh hoạt bởi tình yêu thương nhau với sự hiện điện của Chúa Giêsu giữa chúng ta.

Hỏi: Nụ cười của chị cũng là nụ cười, mà người ta thấy trên gương mặt của biết bao nhiêu thành viên của Phong Trào Tổ Ấm. Nó nảy sinh từ đâu vậy thưa chị?

Đáp: Một đôi khi nụ cười có thể nảy sinh từ thiện cảm, và đó là điều mọi người đều làm. Nhưng nó cũng có gốc rễ sâu xa hơn nơi chính sự lựa chọn của chúng tôi: lựa chọn Chúa Giêsu làm Phu Quân, trong những lúc tột đỉnh của khổ đau và của tình yêu thương. Chọn Chúa Giêsu là Phu Quân có nghĩa là sống trở lại sự tín thác của Chúa Kitô trên thập giá, bị Thiên Chúa Cha bỏ rơi nhưng không tuyệt vọng, trái lại hoàn toàn phó thác nơi Thiên Chúa Cha: ”Lậy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha”. Khi gặp phải bất cứ nỗi khổ đau nào, chúng tôi nói, hay ít nhất chúng tôi tìm cách nói - vì thật không luôn luôn dễ dàng - chúng tôi tìm cách nói: ”Chính Chúa. Con đã chọn Chúa, con đã muốn Chúa và con đã tìm thấy Chúa. Vì thế con tổ chức lễ mừng Chúa”. Nụ cười nở hoa vì lễ mừng tổ chức cho Chúa. Đây không phải là việc hài lòng trong đau khổ, mà là hạnh phúc trong cuộc găp gỡ với Chúa, một cuộc gặp gỡ qua đau khổ trở thành tinh tế hơn, trở thành siêu nhiên. Và điều đó trao ban cho chúng tôi niềm vui và nụ cười.

(Avvenire 11-7-2008)

Radio Vatican

Hình: Livingcitymagazine.com

Mục lục

 

BẾ MỤC NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ  2008

Việc chuẩn bị Ngày Quốc Tế Giới Trẻ sẽ được tổ chức tại Madrid vào năm 2011

 

Madrid (Zenit 20 tháng 7): Đức Hồng Y (ĐHY) Antonio Maria Rouco, Tổng Giám Mục (TGM) Madrid, hy vọng chính phủ Tây ban Nha sẽ cộng tác trong việc chuẩn bị Ngày Quốc Tế Giới Trẻ sẽ được tổ chức tại Madrid vào năm 2011.

Sáng Chúa Nhật vừa qua, ngày 20 tháng 7, sau khi Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI công bố địa điểm tổ chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Madrid, thì ĐHY TGM Madrid, kiêm chủ tịch Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) Tây banNha, đã cho biết rằng những tương quan giữa Giáo Hội và Chính Phủ Tây Ban Nha, hiện do đảng Xã Hội nắm giữ, trong thời gian này là “bình thường”.

ĐHY TGM Madrid, hy vọng Chính Phủ Tây Ban Nha sẽ bảo đảm sự cộng tác và bầu khí tự do hành động, để Giáo Hội công giáo tại đất nước này, chuẩn bị và tổ chức ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm 2011.

ĐHY dự đoán là sẽ có khoảng từ 1 đến 2 triệu người tham dự vào biến cố, được dự trù tổ chức vào tuần lễ thứ ba của tháng 8 năm 2011.

Về địa điểm, thì ĐHY TGM Madrid nghĩ đến Căn Cứ Quân Sự “Cuatro Vientos”, là địa điểm mà tại đó vào ngày 3 tháng 5 năm 2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đă gặp gỡ với hơn 700.000 bạn trẻ.

Đánh giá sơ bộ của Đức Hồng y George Pell, TGM Sydney về Ngày Giới Trẻ Thế Giới

 

Sydney (Agenzia Fides) - Đức Hồng y George Pell, Tổng Giám Mục của Sydney đã đưa ra đánh giá sơ bộ về Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 vừa bế mạc: “Đó là những ngày thật đáng nhớ. Đây là thời điểm tốt cho Công Giáo. Hàng chục ngàn người trẻ hạnh phúc làm cho những người khác cũng hạnh phúc. Tất cả Sydney, không chỉ Công Giáo Sydney, đã tham dự vào các cuộc hành hương bằng cả tấm lòng. Tôi thấy thành phố hưng thịnh trở lại”.

Đức Tổng Giám Mục đã bày tỏ niềm vui và sự hài lòng của ngài về một sự kiện thành công, làm cho Sydney trở thành “trung tâm của thế giới” trong vài ngày, và mang một sứ điệp Kitô giáo hết sức lớn lao ở Úc Châu. Đức Hồng y cám ơn những người hành hương, những người thiện nguyện và các thành viên chính phủ Úc, những người đã ủng hộ sự kiện WYD và làm cho nó trở thành hiện thực. Ngài cũng cám ơn người dân Sydney đã chào đón Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và giới trẻ từ khắp thế giới. Tất cả đã đem lại cho chính họ để “bàn tay Thiên Chúa có thể thêm một chương mới trong lịch sử nước Úc”.

Ngài bình luận thêm: “Dù được dự báo là mưa suốt tuần, nhưng thời tiết lại tốt đẹp” và cảnh sát “đã làm việc cật lực”, dùng “khả năng ứng biến và tài phán đoán một cách chan hòa”, ngay khi tình trạng đặc biệt về luật pháp đã được đưa ra trong những sự kiện như WYD và Olympic. Ngài nói rằng những sự kiện như thế vẫn khắc ghi trong hồi ức của thành phố: “Việc chào đón Đức Thánh Cha ở bờ biển Barangaroo, Đàng Thánh Giá, Đêm Canh Thức, Thánh lễ Bế Mạc, và nhất là niềm vui đã được bày tỏ bằng nhiều cách bởi nhiều người trẻ”.

Các con số thống kê đã được Đức Hồng y đề cập đến: 400.000 người hành hương tham dự Thánh lễ bế mạc ở Trường Đua Randwick; giới trẻ từ 170 quốc gia đã đến tham dự WYD; 8.000 thiện nguyện viên đã làm việc trong ban tổ chức và hậu cần. Đức Hồng y cũng đề cập đến sự kiện ở Randwick là sự kiện quy tụ đông người nhất trong lịch sử nước Úc.

Một kỷ lục khác cũng đã được lập nên về truyền tải thông tin: Website chính thức bằng 4 ngôn ngữ www.wyd2008.org là một trong những trang web được truy cập nhiều nhất thế giới, các dịch vụ video-web khác đã truyền tải hình ảnh từ Vatican Television Center (CTV) và các hãng thông tấn quốc tế khác những tin tức cập nhật đến cho mọi ngươi. Trang web www.wydcrossmedia.org, một trang web liên kết đã đưa tin từ hãng tin Công Giáo lớn, cũng đã góp phần đầy ý nghĩa với rất nhiều link. WYD đã được đưa tin trên “YouTube”, nơi mà hơn 3.000 trang hoạt động, cũng đã cho thấy ý nghĩa toàn cầu của loan báo Tin Mừng giữa các hình thức truyền thông mới.

Mục lục

 

Vài Nhận Định của Linh Mục Fêdêricô Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, về Ngày Quốc Tế Giới Trẻ vừa qua tại Sydney

Zenit 20 tháng 7- “Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Sydney là biến cố ‘đặc biệt duy nhất’.” Đó là nhận xét tổng quát đầu tiên của Linh Mục Federico Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, kiêm Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Vatican, trong bài phỏng vấn dành cho Đài Phát Thanh Vatican, sau khi đã tháp tùng Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI (ĐTC) trong suốt chuyến viếng thăm tại Australia, nhân dịp ngày Quốc Tế Giới Trẻ vừa qua.

Linh Mục Giám Đốc còn cho biết thêm như sau:


“Môi trường Australia là môi trường thật đặc biệt. Tôi khâm phục sự dấn thân của người dân và của Giáo Hội Công Giáo tại Australia để tổ chức và làm cho Ngày Quốc Tế Giới Trẻ đạt được những kết quả nổi bật trên nhiều bình diện về con số người trẻ tham dự, về cách thức cử hành các sinh hoạt, về sự tham dự tích cực của thành phố Sydney và của xã hội xunh quanh.”


Theo nhận xét của linh mục Lombardi, thì biến cố cử hành các chặng Đàng Thánh Giá qua các ngã đường phố và với sự tham dự trình diễn của khoảng 100 nam nữ nghệ sĩ, là biến cố đánh động và mời gọi suy tư, không những nơi những kẻ trực tiếp tham dự mà còn cả nơi những cư dân của thành phố. Điều này cho thấy ý nghĩa rất hợp thời của một truyền thống cổ xưa suy niệm Đàng Thánh Giá Chúa.


Linh mục Lombardi còn lưu ý đến quyết định “can đảm” của Ban Tổ Chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, đưa “việc Chầu Thánh Thể Chúa” vào Chương Trình Canh Thức tối thứ bảy, áp ngày Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ. Đây là sinh hoạt lần đầu tiên được thêm vào chương trình canh thức Canh Thức của Ngày Quốc tế Giới Trẻ năm 2005, tại Colonia, bên Đức. Mặc dù chương trình Chầu Thánh Thể Chúa không kéo dài thái quá, nhưng được các bạn trẻ tích cực và sốt sắng tham dự, với những bài hát xen kẽ với những giây phút suy niệm trong thinh lặng. Khi lần đầu tiên đưa Giờ Chầu Thánh Thể vào chương trình Canh Thức năm 2005, ban tổ chức lúc đó còn nghi ngờ về thái độ đáp trả của các bạn trẻ. Nhưng thực tế cho thấy là các bạn trẻ đã sốt sắng tham dự. Linh Mục Lombardi nhận định thêm như sau: “Tôi tin rằng việc Chầu Thánh Thể trong buổi tối Canh Thức đó nói lên một sứ điệp quan trọng cho các bạn trẻ: đó là lời mời gọi hãy đặt việc cầu nguyện vào trung tâm đời sống Kitô, nhất là việc cầu nguyện trước Thánh Thể, cầu nguyện trong thinh lặng chiêm ngắm và tôn thờ Chúa Thánh Thể”.


Cuối cùng nhận định về vai trò và ảnh hưởng của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI trong và nhờ qua Ngày Quớc Tế Giới Trẻ, Linh Mục Lombardi chia sẻ tiếp như sau: “Tôi nghĩ rằng ảnh hưởng của Đức Bênêđitô XVI trên ngày này cũng rất nổi bật. ĐTC đã cố gắng mang đến cho Ngày Quốc Tế Giới Trẻ một nội dung giáo lý sâu xa với những diễn văn có tính cách như bài giáo lý mời gọi dấn thân; những “bài giáo lý” của Đức Thánh Cha tuy không luôn luôn dễ thực hiện ngay, nhưng là những bài giáo lý rất vững chắc và sâu xa, cần được suy niệm và cầu nguyện…” ĐTC đã trình bày giáo lý thật rộng rãi về đời sống Kitô, hướng theo chủ đề về “Chúa Thánh Thần”, với khởi đầu từ bí tích rửa tội và bí tích thêm sức, bí tích đặc biệt của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Theo linh mục Lombardi, ĐTC đã nói, và ngài nói thật nhiều nhưng rõ ràng, với nội dung phong phú và sâu xa. Cần có thời gian để “lĩnh hội”. Những bài giáo lý của ĐTC luôn được đi kèm với cường độ thiêng liêng và với lòng mộ mến. Để làm sáng tỏ thêm, Linh Mục Lombardi trưng lại giây phút ĐTC gặp gỡ với các bạn trẻ “kém may mắn”. ĐTC đã trình bày cho các bạn trẻ này về đời sống Kitô như là một cuộc hành trình canh tân và chữa lành nội tâm, một hành trình tìm sự bình an và tình yêu thương, một tình thương cần trở thành tích cực đối với anh chị em xung quanh, nhất là đối với những ai đang sống trong hoàn cảnh khó khăn. Có như thế, người trẻ mới thực sự có khả năng hiểu được những khó khăn của người khác.

Mục lục

 

 

Vài con số về Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2008 tại Sydney

Sydney (Zenit 21 tháng 7)- Ngày Quốc tế Giới Trẻ tại Sydney vừa kết thúc (15-20 tháng 7), ban tổ chức đã công bố vài con số như sau:

Trong tuần lễ cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại các giáo phận toàn nước Úc, đã có 70 ngàn bạn trẻ nước ngoài tham dự những sinh hoạt tại các địa phương khác nhau.

Trong ngày chính thức đón tiếp Đức Thánh Cha đến với Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, tức ngày 17 tháng 7, đã có 500 ngàn người tham dự vào biến cố. Và có 150 ngàn người tham dự Thánh Lễ khai mạc tại Bến Cảng Barangoroo, Sydney.

Các tham dự viên Ngày Quốc Tế Giới Trẻ đến từ 170 quốc gia. Và trong nghi thức rước quốc kỳ trước Thánh Lễ khai mạc, có 168 lá cờ đã được rước lên khán đài.

Có khoảng 500 triệu người theo dõi những sinh hoạt của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ qua hệ thống truyền hình. Nếu tính chung con số những ai theo dõi qua phương tiện Internet, thì con số có thể lên đến khoảng một tỉ người.

Có tất cả 2 ngàn tổ chức hoặc cơ quan truyền thông xã hội đăng ký tham dự ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

Trong thời gian từ ngày 12 cho đến ngày 20 tháng 7, đã có 20 triệu 500 ngàn lần vào thăm trang wibsite chính thức của Ngày Quốc tế Giới Trẻ. (www.wyd2008.org)

Trong Tuần Lễ cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, chương trình sinh hoạt văn hoá- gọi là “Lễ Hội Giới Trẻ” (Youth Festival)- được trình diễn tại 100 địa điểm khắp nước Úc, với 450 lần trình diễn.

Tại thành phố Sydney, địa điểm chính của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, các bài giáo lý đã được diễn giảng tại 235 địa điểm, bằng 29 ngôn ngữ khác nhau.

Ca đoàn tổng hợp của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ gồm có 300 ca viên, với dàn nhạc gồm có 80 nhạc cụ.

Trong suốt tuần cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, có một ngàn linh mục ban bí tích hoà giải cho các tín hữu. Thánh Giá Ngày Giới Trẻ và Bức Hiện Ảnh Đức Mẹ đã được rước đến 400 cộng đoàn trên khắp nước Úc, trong vòng 12 tháng trước ngày khai mạc.

Có 100 ngàn khách hành hương được đón tiếp tạm trú tại 400 giáo xứ và trường học; và có 12 ngàn khách hành hương tạm trú tại Công Viên Olympic Sydney.

Có tất cả 8 ngàn thiện nguyện viên giúp ban tổ chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Có tất cả 26 vị Hồng y, 420 giám mục và 4 ngàn linh mục và thầy sáu tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

Có 235 ngàn người tham dự Buổi Canh Thức Chiều Tối Thứ Bảy 19/7 tại địa điểm Trường Đua Ngựa. Sau đó, 200 ngàn người ở lại tại chỗ qua đêm, để chờ tham dự Thánh Lễ Bế Mạc vào sáng Chúa Nhật 20 tháng 7.

Và có 400 ngàn người tham dự Thánh lễ Bế Mạc ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

Đặc biệt, Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Sydney được đặt dưới sự bảo trợ thiêng liêng của 10 vị thánh, chân phước và đầy tớ Chúa, như sau: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Faustina Kowalska, thánh Maria Goretti, Thánh Pietro Chanal, Chân phước Peter To Rot, chân phước Mary MacKillop, chân phước Pier Giorgio Frassati, chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta, Đầy Tớ Chúa giáo hoàng Gioan Phaolô II, và cuối cùng là Đức Mẹ Maria dưới tước hiệu “Đức Bà của Thập Giá miền Nam”.

Mục lục

Những hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha tại Sydney

 

SYDNEY. Trước khi rời Sydney lên đường về Roma, ĐTC Biển Đức 16 đã gặp một nhóm nạn nhân bị lạm dụng tính dục, gặp gỡ và cám ơn 12 ngàn người thiện nguyện đã góp phần tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 23.


Lúc 7 giờ sáng 21-7-2008, ĐTC đã dâng thánh lễ tại Nhà nguyện tòa TGM Sydney, và trong số những người tham dự, có một nhóm 4 người, 2 nam hai nữ, đại diện các nạn nhân những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Tháp tùng họ còn có 2 người hỗ trợ và một LM đặc trách mục vụ cho họ.


Đồng tế với ĐTC có ĐHY Pell, TGM Sydney và Đức TGM Fernando Filoni, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và hai LM bí thư riêng của ĐTC. Sau thánh lễ, các nạn nhân đã được nói chuyện từng người với ĐTC. Ngài chia sẻ nỗi đau khổ và an ủi họ. Bầu không khí cuộc gặp gỡ thật cảm động. Như trong cuộc viếng thăm tại Hoa Kỳ hồi tháng 4 năm nay, ĐTC muốn gặp một số nạn nhân như một cử chỉ cụ thể để biểu lộ tâm tình ngài đã nhiều lần bày tỏ về thảm trạng lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.


Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết tại Úc, ĐTC muốn gặp các nạn nhân sau khi kết thúc Ngày Quốc Tế giới trẻ, vì những ngày này là mục tiêu chính cuộc viếng thăm của Ngài.


Tại Úc có 109 vụ giáo sĩ tu sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và một số đang bị tòa cứu xét. Một số tổ chức nạn nhân lạm dụng khác không hài lòng vì không được ĐTC tiếp. Tuy nhiên, ĐHY Pell cho biết ngài nhận được đơn của hàng trăm người muốn gặp ĐGH và hoàn cảnh không cho phép tất cả mọi người gặp ĐTC.


Cám ơn 12 ngàn người thiện nguyện


Sau thánh lễ, lúc quá 8 giờ rưỡi, ĐTC đã ra công viên Domain, cách đó 300 mét, giữa khu Thương Mại và Vườn Bách thảo hoàng gia, để gặp gỡ và cám ơn 12 ngàn người thiện nguyện từ phía Giáo Hội cũng như các tổ chức dân sự đã góp phần chuẩn bị, tổ chức và tiến hành Ngày Quốc Tế giới trẻ vừa qua. Trong dịp này, ĐTC nói:


”Các bạn thân mến.. trong những ngày qua, chúng ta có thể chứng kiến tận mắt niềm vui mà bao nhiêu ngàn người trẻ tìm được trong niềm tin của họ và chúng ta có thể dâng lời chúc tụng cảm tạ Thiên Chúa vì lòng từ nhân của Ngài đío với chúng ta. Chúng ta đã nếm hưởng được sự nồng nhiệt và lòng quảng đại hiếu khách của dân Úc, chúng ta được thấy quang cảnh hùng vĩ của đại lục tươi đẹp này. Đây thực là một tuần lễ đáng nhớ.


”Nhưng những điều đó không thể xảy ra được nếu không có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng và công việc vất vả trong thời gian tiến đến Ngày Quốc Tế giới trẻ. Tôi muốn cám ơn tất cả anh chị em vì sự dấn thân quảng đại, hy sinh thời giờ và năng lực, để đảm bảo cho mỗi biến cố của Ngày Quốc Tế giới trẻ được diễn tiến tốt đẹp. Các biến cố ấy đòi phải có sự phối hợp kỹ lưỡng, với sự can dự của chính quyền dân sự, cảnh sát và các cơ quan cứu cấp, các nhân viên của Giáo Hội và rất nhiều người thiện nguyện trợ giúp. Các nỗ lực của anh chị em dọn đường cho Chúa Thánh Linh đổ xuống mạnh mẽ, kiến tạo những mối giây hiệp nhất và tình thân hữu giữa những người trẻ thuộc rất nhiều môi trường khác nhau, khơi dậy lòng yêu mến của họ đối với Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội. Trong các đám đông tụ tập tại Sydney này, chúng ta thấy biểu lộ sinh động sự hiệp nhất trong sự khác biệt của Giáo Hội hoàn vũ, một biểu tượng gia đình nhân loại được hiệp nhất mà chúng ta mong ước được nhìn thấy. Trong quyền năng của Chúa Thánh Linh, ước gì các bạn trẻ ấy có thể làm cho viễn tượng ấy trở thành thực tại trong tương lai

(...)

 

”Giờ đây tôi lên đường trở về Roma, tôi giữ mãi kỷ niệm về những biến cố đầy ơn thánh mà chúng ta đã cùng nhau trải qua: từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với các bạn trẻ tại bến tàu Barangaroo, qua các cuộc gặp gỡ tại Darlinghust và Nhà thờ chính tòa Thánh Maria, tới buổi canh thức với giới trẻ tại khu vực Thánh Giá miền nam (Randwick), và thánh lễ bế mạc tại đó. Tôi cũng cầu mong anh chị em sẽ giữ những kỷ niệm quí giá và những ý tưởng tinh thần, trở về nhà với lòng nhiệt thành hăng sau truyền bá Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Trong quyền năng của Thánh Linh, giờ đây anh chị em hãy ra đi để canh tân bộ mặt thế giới.”


Từ biệt


Rời công viên Domain, ĐTC đã ra phi trường quốc tế Sydney cách đó 13 cây số. Tại đây vào lúc 9 giờ rưỡi sáng đã diễn ra nghi thức tiễn biệt ĐTC với sự hiện diện của vị Toàn Quyền, thủ tướng và các giới chức đạo đời.


Trong lời từ biệt, ĐTC chân thành cám ơn thủ tướng Kevin Rudd và các giới chức chính quyền các cấp, chính quyền liên bang và tiểu bang cũng như dân chúng và cộng đồng doanh thương tại Sydney đã cộng tác rất nhiều vào việc hỗ trợ Ngày Quốc Tế. Ngài nói:


”Một biến cố thuộc loại này đòi phải có một sự chuẩn bị và tổ chức hết sức lớn lao và chu đáo, và tôi biết rằng mình nói thay cho hàng ngàn bạn trẻ khi tôi bày tỏ lòng quí mến và biết ơn đối với tất cả. Theo đặc tính của dân Úc, anh chị em đã dành sự đón tiếp nồng nhiệt cho tôi và vô số các bạn trẻ hành hương từ mọi góc trời bay về đây. Tôi cũng đặc biệt biết ơn các gia đình tại Úc và Tân Tây Lan đã mở cửa đón tiếp các bạn trẻ trong gia đình mình. Anh chị em đã mở cửa nhà và cửa tâm hồn cho người trẻ thế giới, nhân danh họ tôi cám ơn anh chị em.


”Dĩ nhiên những người giữ vai chính trong những ngày qua là chính các bạn trẻ. Ngày Quốc Tế giới trẻ là của họ. Chính họ đã làm cho biến cố này trở thành một biến cố của Giáo Hội hoàn vũ, một đại lễ của giới trẻ và đại cử hành đặc tính của Giáo Hội, là Dân Thiên Chúa trên thế giới, được hiệp nhất với nhau trong đức tin và tình thương, được Thánh Linh ban sức mạnh để làm chứng về Chúa Kitô phục sinh cho đến tận bờ cõi trái đất. Tôi cám ơn các bạn trẻ đã đến, và tham gia, tôi cầu nguyện để họ được về nhà bình an. Tôi biết rằng người trẻ, gia đình họ và những người bảo trợ nhiều khi phải hy sinh rất nhiều để có thể đến nước Úc này. Toàn thể Giáo Hội ghi ơn điều đó.


ĐTC nói thêm rằng: ”khi nhìn lại những ngày vừa qua, có nhiều quang cảnh nổi bật trong tâm trí tôi. Tôi rất cảm động vì cuộc viếng thăm tại Đền tưởng niệm chân phước Mary MacKillop, tôi cám ơn các nữ tu thánh Giuse vì cơ hội được cầu nguyện tại Đền thánh vị Sáng lập dòng của các chị. Buổi đi đàng thánh giá qua các đường phố Sydney thật là một sự nhắc nhớ mạnh mẽ rằng Chúa Kitô yêu thương chúng ta cho đến cùng và Chúa chia sẻ những đau khổ của chúng ta để chúng ta có thể chia sẻ vinh quang của ngài. Cuộc gặp gỡ với giới trẻ tại Darlinghurst (Cảng Darling) cũng là một lúc vui mừng và đầy hy vọng, một dấu chỉ cho thấy Chúa Kitô có thể nâng chúng ta ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn, tái lập phẩm giá cho chúng ta và làm cho chúng ta có thể nhìn về tương lai tươi sáng hơn. Cuộc gặp gỡ đại kết và liên tôn với các vị lãnh đạo tôn giáo mang đậm tình huynh đệ chân thành và ước muốn nồng nhiệt cộng tác với nhau nhiều hơn trong việc xây dựng một thế giới công bằng và an binh hơn. Và chắc chắn cuộc gặp gỡ tại Barangaroo và khu vực Thánh Giá miền nam là cao điểm trong cuộc viếng thăm của tôi. Những kinh nghiệm cầu nguyện, và hân hoan cử hành thánh lễ là chứng từ hùng hồn về công trình ban sự sống của Thánh Linh, Đấng hiện diện và hoạt động trong tâm hồn người trẻ. Ngày Quốc Tế giới trẻ chứng tỏ rằng Giáo Hội có thể vui mừng với người trẻ ngày nay và được tràn đầy hy vọng về thế giới ngày mai”


Về phần thủ tướng Úc, Kevin Rudd, trong lời từ biệt ĐTC, ông đã loan báo một quyết định quan trọng: trong thời gian tới đây, đại sứ quán Úc cạnh Tòa Thánh sẽ không đặt tại thủ đô Dublin của Ai Len nữa, nhưng sẽ được đặt ngay tại Roma, đồng thời thủ tướng cũng loan báo tân đại sứ Úc cạnh Tòa Thánh là ông Timothy Andrei Fisher, 62 tuổi, đã từng là phó thủ tướng, lãnh tụ đảng Quốc Gia Úc.


Sau nghi thức tiễn biệt, ĐTC, đoàn tùy tùng và các ký giả đáp máy bay Boeing 747 của hãng Qantas, tới thành phố Darwin, để lấy thêm nhiên liệu trước khi thực hiện chuyến bay dài 15 tiếng rưỡi, và đã về đến Roma lối 23 giờ ngày 21-7-2008.

Mục lục

 

Ðức Thánh Cha cử hành Thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ 2008

 

Sydney, Australia (Vat. 20/07/2008) - Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 23 đã kết thúc tốt đẹp với Thánh Lễ trọng thể do Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 cử hành lúc 10 giờ sáng chúa nhật 20-7-2008 tại Sydney với sự tham dự nồng nhiệt của gần nửa triệu bạn trẻ và các tín hữu. Ngài cũng tuyên bố Ngày Quốc Tế giới trẻ hoàn vũ lần tới sẽ diễn ra vào năm 2011 tại Madrid, Tây Ban Nha.

 

Trước khi vào địa điểm hành lễ, ÐTC đã dùng trực thăng bay trên khu vực trường đua Randwick và công viên Bách Chu Niên để quan sát quang cảnh các bạn trẻ và tín hữu tụ tập chuẩn bị thánh lễ. Tiến đến từ lúc 9 giờ rưỡi, ngài dùng xe bọc kính tiến qua qua các lối đi tại trường đua Randwick để chào các bạn trẻ và tín hữu, giữa tiếng reo hò của mọi người. Thỉnh thoảng xe dừng lại để các nhân viên cận vệ mang một em bé cho ÐTC hôn và chúc lành.

 

Trên lễ đài, đã có lối 450 Giám Mục các nước trong phẩm phục mầu đỏ, cùng với hơn 4 ngàn linh mục đeo dây stola đỏ, sẵn sàng cho thánh lễ, trong khi hai ca đoàn hùng hậu 300 trăm ca viên và ban nhạc 80 người liên tục hát các bài thánh ca chuẩn bị. Tại khu vực danh dự đặc biệt có vị toàn quyền, thủ tướng, liên bang và tiểu bang cùng với thị trưởng và chính quyền thành phố Sydney.

 

Ðúng 10 giờ sáng, ÐTC và gần 50 Hồng Y đồng tế từ từ tiến lên lễ đài được trải thảm đỏ, trong khi ca đoàn hát ca nhập lễ lễ kính Chúa Thánh Thần, vì trong thánh lễ này, có 24 thanh niên được ÐTC ban phép thêm sức, chiếu theo chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ lần này là lời Chúa Giêsu phục sinh nói với các môn đệ: "Các con sẽ được sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Ðấng sẽ ngự xuống trên các con, và các con sẽ là chứng nhân của Thầy" (TÐCV 1,8).

 

Trong lời chào mừng đầu thánh lễ, Ðức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney sở tại nhắc đến lời ÐTC Biển Ðức 16 đã nói vài ngày sau khi đắc cử Giáo Hoàng: "Giáo Hội không già nua và bất động, nhưng trẻ trung". Chúng con nhìn cộng đoàn đông đảo này và thấy rằng điều ÐTC nói quả là sự thật. Giáo Hội sinh động và Giáo Hội trẻ trung. Chúng con thật hạnh phúc vì được tụ họp trong Ngày Quốc tế giới trẻ 2008 này và hạnh phúc vì ÐTC đến với chúng con nhân danh Chúa Giêsu".

 

Trong bài giảng thánh lễ, ÐTC đã diễn giảng về sức mạnh của Chúa Thánh Linh, quyền năng ban sự sống của Chúa, quyền năng chỉ dẫn chúng ta hướng về Nước Chúa đang đến, và ngài nói với các bạn trẻ rằng:

 

"Hỡi những người trẻ quý mến, giờ đây hãy để cha hỏi các con một câu: các con sẽ để lại những gì cho thế hệ sắp tới? Các con có xây dựng cuộc sống của mình trên những nền tảng vững chắc, kiến tạo một cái gì trường tồn hay không? Phải chăng các con đang sống cuộc sống của mình bằng cách mở rộng không gian cho Chúa Thánh Linh giữa lòng một thế giới đang muốn quên Chúa, hoặc thậm chí chối bỏ Chúa nhân danh thứ tự do được quan niệm sai lầm? Các con đang sử dụng những hồng ân đã nhận lãnh như thế nào, sử dụng ra sao sức mạnh mà Chúa Thánh Linh sắp đổ xuống trong tâm hồn các con? Ðâu là gia sản các con sẽ để lại cho những người trẻ sẽ đến sau các con?... Quyền năng của Chúa Thánh Linh không những soi sáng và an ủi chúng ta, nhưng còn hướng chúng ta về tương lai, về Nước Chúa đang đến. Thật là một cái nhìn tuyệt vời dường nào về một nhân loại được cứu chuộc và đối mới như chúng ta thấy trong thời đại mới được Chúa hứa trong Tin Mừng hôm nay! Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô thể hiện viên mãn mọi lời hứa của Thiên Chúa, Ngài là Ðấng Messia có trọn Thánh Linh để để ban ơn ấy cho toàn thể nhân loại. Thánh Linh của Chúa Kitô được đổ xuống trên nhân loại chính là một bảo chứng hy vọng và giải thoát khỏi tất cả những gì làm cho chúng ta trở nên nghèo nàn. Chúa ban cho người mù được thấy, kẻ bị áp bức được giải thoát, kiến tạo sự hiệp nhất trong và qua sự khác biệt (Lc 4,18-19; Is 61,1-2). Quyền năng ấy có thể kiến tạo một thế giới mới: có thể "canh tân bộ mặt trái đất" (Tv 104, 30).

 

ÐTC nói thêm rằng: "Ðược sức mạnh của Thánh Linh và được cái nhìn phong phú của đức tin, một thế hệ mới của các tín hữu Kitô đang được kêu gọi góp phần kiến tạo một thế giới trong đó hồng ân sự sống của Thiên Chúa được chào đón, tôn trọng và nuôi dưỡng, chứ không bị loại bỏ, bị sợ hãi như một đe đọa và bị tiêu diệt. Một thời đại mới trong đó tình yêu không phải là sự ham hố hoặc tìm kiếm bản thân, nhưng trong sạch, trung thành và tự do chân thực, cởi mở đối với tha nhân, tôn trọng phẩm giá và tìm kiếm thiện ích cho họ, chiếu tỏa niềm vui và vẻ đẹp. Một thời đại mới trong đó hy vọng giải phóng chúng ta khỏi sự nông cạn, lãnh đạm và thái độ chỉ qui hướng về mình, làm cho tâm hồn chúng ta đen tối và làm hư hại các quan hệ của chúng ta.

 

"Hỡi những người trẻ quí mến, Chúa đang gọi các con trở thành ngôn sứ của Chúa loan báo thời đại mới ấy, trở hành những sứ giả tình thương của Chúa, lôi kéo dân chúng về cùng Chúa Cha và kiến tạo một tương lai hy vọng cho toàn thể nhân loại.

 

"Thế giới này đang cần sự canh tân như thế! Trong quá nhiều xã hội của chúng ta, bên cạnh những phong phú về vật chất, là một sa mạc tinh thần đang lan rộng: đó là sự trống rỗng nội tâm, một sự sợ hãi không tên, một cảm thức âm thần về sự tuyệt vọng. Biết bao nhiêu người đồng thời của chúng ta đã kiến tạo những bồn chứa nước bị vỡ và trống rỗng (Giêr. 2,13) trong khi tuyệt vọng tìm kiếm ý nghĩa - ý nghĩa tối hậu mà chỉ tình yêu thương mới có thể mang lại được? Hồng ân lớn lao và có sức giải thoát mà Tin Mừng mang lại chính là điều này: Tin Mừng ấy mạc khải cho chúng ta phẩm giá của chúng ta như những người nam nữ được tạo thành theo hình ảnh giống Thiên Chúa, mạc khải ơn gọi cao cả của nhân loại, một ơn gọi cần được chu toàn trong tình yêu.

 

"Giáo Hội cũng cần được canh tân như vậy. Giáo Hội đang cần niềm tin, sự say mê lý tưởng và lòng quảng đại của các con, để có thể luôn luôn trẻ trung trong Thánh Linh (LG 4). Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô Tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng mỗi tín hữu Kitô đã nhận lãnh xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô. Giáo Hội đặc biệt cần sự đóng góp của mọi người trẻ, cần tăng trưởng trong quyền năng của Thánh Linh, Ðấng ban niềm vui cho tuổi trẻ của các con và gợi hứng cho chúng con phụng vụ Chúa trong vui tươi. Các con hãy cởi mở tâm hồn mình cho quyền năng ấy. Cha đặc biệt gửi lời kêu gọi ấy ấy những người trong các con được Chúa gọi vào chức linh mục và đời sống thánh hiến. Các con đừng sợ thưa "xin vâng" đối với Chúa Giêsu, tìm vui trong việc thi hành ý Chúa, tận hiến đời mình để theo đuổi sự thánh thiện và dùng mọi tài năng của mình để phục vụ tha nhân!

 

Sau bài giảng của ÐTC, Ðức Hồng Y Pell đã điểm danh 24 bạn trẻ chịu phép thêm sức, gồm 10 người Úc và 14 người còn lại thuộc các nước khác nhau, trong đó có anh Nguyễn Long, người Việt Nam, trong áo lam khăn đóng cổ truyền. Cùng với 24 cha mẹ đỡ đầu họ tiến lên lễ đài trước ÐTC. Tiếp đến, cộng đoàn đã cử hành nghi thức từ bỏ ma quỉ và tuyên xưng đức tin, trước khi ÐTC lần lượt ban phép thêm sức cho 24 ứng viên, xức dầu trên trán và chúc bình an cho họ.

 

Cuối thánh lễ, theo thông lệ, ÐTC đã chủ sự buổi đọc kinh truyền tin. Trong huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài nhắc đến sự kiện Ðức Maria lo sợ trước viễn tượng tương lai khi được sứ thần báo tin và được Sứ thần trấn an... Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ và quyền năng của Ðấng Tối cao sẽ bao phủ Trinh Nữ (Lc 1,30.35). Chính Thánh Linh mang lại cho Ðức Maria sức mạnh và can đảm đáp lại tiếng gọi của Chúa, giúp Mẹ hiểu mầu nhiệm cao cả sẽ được thể hiện nơi Mẹ. ÐTC nhắn nhủ các bạn trẻ noi gương Mẹ Maria luôn trung thành với lời thưa "xin vâng" đối với Chúa giữa bao nhiêu thăng trầm và khó khăn trong cuộc sống. "Chúng ta biết Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Chúa luôn nâng đỡ chúng ta qua các ơn của Thánh Linh".

 

Sau kinh truyền tin, ÐTC còn nói ít lời nhắn nhủ các bạn trẻ bằng 5 thứ tiếng Ý, Pháp, Ðức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha. Ðức Hồng Y Pell đã đại diện mọi người cám ơn ÐTC và chính quyền, ban tổ chức cũng như tất cả mọi người cộng tác vào việc tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ tại Sydney. Và về phần Ðức Hồng Y Stanislaw Rylko, người Ba Lan, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, ngài cũng lên tiếng và gọi Những ngày Quốc tế giới trẻ này với các bạn trẻ đến từ các nơi trên thế giới thực là một hình ảnh tuyệt vời về một Giáo Hội trẻ trung, đầy hy vọng, niềm vui đức tin, và can đảm truyền giáo. Ðức Hồng Y cũng hy vọng rằng nhờ chứng tá đức tin của bao nhiêu con cái mình, Giáo hội tại Úc có thể nhìn về tương lai với niềm tín thác mạnh mẽ hơn.

 

Sau cùng, ÐTC loan báo: "Ðã đến lúc chúng ta nói lời từ giã, hay đúng ơn là hẹn gặp lại nhau. Tôi cảm ơn tất cả mọi người đã tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ 2008 tại Sydney này và gặp lại trong vòng 3 năm nữa. Ngày Quốc Tế giới trẻ năm 2011 sẽ diễn ra tại Madrid, Tây Ban Nha. Trong khi chờ đến lúc ấy, chúng ta cầu nguyện cho nhau và làm chứng tá vui mừng trước mặt thế giới về Chúa Kitô. Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em".

 

Các bạn trẻ Tây Ban Nha đã reo hò vui mừng và vẫy cờ nồng nhiệt sau lời tuyên bố này và Ðức Hồng Y Rouco Varela, Tổng Giám Mục Madrid, cùng với một số Hồng Y khác người Tây Ban Nha, tiến đến bắt tay cám ơn ÐTC về quyết định này.

 

Thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ kéo dài 2 giờ 45 phút trong niềm hân hoan của mọi người.

Mục lục

 

 

Phỏng vấn ĐHY Gioan B. Phạm Minh Mẫn về sự kiện kết nghĩa giữa hai Tổng Giáo phận TGP Los Angeles và TGP Sài Gòn

 

Ngày 1 tháng 7 năm 2008 vừa qua, ĐHY Gioan B. Phạm Minh Mẫn của Tổng giáo phận Sài Gòn đã tới Nhà thờ Chính tòa của Giáo phận Los Angeles để cùng với ĐHY Roger Mahony ký kết một văn kiện kết nghĩa giữa hai giáo phận. Sau đây là bài trả lời phỏng vấn ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn dành cho Lm Trần Công Nghị, chúng tôi xin ghi lại từ bản tin của VietCatholic Media cho quý vị ở Việt Nam không có điều xem có thể đọc bằng văn bản.

 

Kính thưa Đức hồng y, cảm tưởng của Đức Hồng y như thế nào sau khi ký văn kiện kết nghĩa giữa hai Giáo hội: Giáo hội tại Los Angeles và Giáo hội tại Sài Gòn ?

 

Đối với tôi, điều căn bản trong bản chất của Giáo hội đó là sự hiệp thông. Hiệp thông cụ thể trong tình huynh đệ tương thân tương trợ lẫn nhau. Mỗi bên đều có những nhu cầu tinh thần và vật chất để hỗ trợ cho nhau. Những vật chất, những điều cụ thể đó thể hiện bản chất của Giáo hội là hiệp thông. Chúng ta sống trong Giáo hội, mọi người đều có trách nhiệm xây dựng sự hiệp thông đó, phát huy sự hiệp thông đó, để mang lai sự sống dồi dào hơn cho mọi người cho Dân Chúa trong Giáo hội. Cụ thể là bên TGP Los Angeles cần những ơn gọi trẻ, chúng tôi có, chúng tôi chia sẻ. Bên TGP Los Angeles có trường học, có trường đại học, chúng tôi cũng muốn được tham dự vào để sau này có những người làm việc ở bên nhà với tư cách là nhà đào tạo, hay là làm nhiều công việc mục vụ khác nữa, mỗi ngày cần nhiều hơn. Cụ thể là như vậy. Tôi nghĩ rằng điều đó sẽ mang lại ích lợi thiêng liêng cũng như sự sống dồi dào không những cho Giáo phận Sài Gòn hay giáo phận Los Angeles, mà dòng chảy hiệp thông đó có thể lan ra trong cơ thể của Giáo hội, cơ thể của Chúa Kitô.

 

Trong cuộc nói chuyện trước khi ký giấy để hiệp thông thân hữu giữa hai giáo phận, Đức hồng y đã có nói trong tương lai sẽ gởi sang đây những ơn kêu gọi chủng sinh hoặc là linh mục để được giáo dục bên này. Đó là những hình thức rất cụ thể, vậy thì đường hướng đó sẽ được hoạch định và diễn tiến như thế nào thưa Đức hồng y ?

 

Việc này cũng đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi. Tôi đã nói chuyện với Đức hồng y Mahony, ngài đã hỏi tôi từ năm 1999. Khi HĐGMHK họp ở Washington DC mời tôi đến nói chuyện, trong bữa ăn thu hẹp của ban thường vụ HĐGMHK gồm mười mấy vị trong đó có ĐHY Mahony. Ngài đã hỏi tôi về chuyện ký kết này, vấn đề manh nha từ đó. Gần đây, tiến sĩ Tiến sĩ Downey có tới lui Việt Nam một số lần và đã gặp Cha Khảm để đi vào cụ thể… Có lẽ. từ năm tới sẽ thực hiện những chương trình cụ thể.

 

Một trong những điều được kể là quan trọng : Khi nãy, ĐHY Mahony có hỏi cha Khảm về những nhu cầu và cha Khảm cũng nói với ngài về bên này có tổ chức trung tâm mục vụ giữa hai bên. Trung tâm mục vụ Sài Gòn cũng đào tạo rất nhiều những lãnh đạo của giáo dân của giới trẻ và đồng thời bên tổng giáo phận Los Angeles cũng có mỗi năm một đại hội giáo lý mà có thể là đông nhất thế giới gồm 38000 người qui tụ lại trong vòng ba bốn ngày. Trong tương lai hy vọng rằng kinh nghiệm ở giáo phận Los Angeles cũng có thể học hỏi để đưa về VN  để đào tạo được như vậy ?

 

Theo tôi hiểu thì, từ xưa, mọi chỗ giống nhau ở điểm này là, những công việc đó toàn là những người thiện nguyện giúp, không có trả lương gì cả, hồi xưa như vậy, bây giờ cũng vậy và Sài Gòn cũng vậy thôi… Giáo phận Sài Gòn có đến 56000 bạn trẻ tình nguyện dạy giáo lý ở các giáo xứ, chúng ta phải huấn luyện cho các bạn trẻ ấy. Bên nhà còn nhiều điều phải làm , đó là phải từ từ thống nhất, ít nhất là một hướng cho những thủ bản giáo lý. Hình như bên đây họ trải qua những cái đó lâu rồi. Mình không những học ở đại hội, mà còn học cái quá trình của họ, kinh nghiệm của họ, để thống nhất những thủ bản giáo lý không những cho Sài Gòn mà cho cả Việt Nam. Đại hội từng lần là họ trao đổi kinh nghiệm về phương pháp, kỹ thuật, phương thế, sử dụng cái gì đó…tất cả những chuyện đó mình sẽ học hỏi thêm. Nhưng nhiều khi, có những điều mình bắt chước được, cũng có những điều mình không bắt chước được.

 

Sau khi kết nghĩa giữa hai giáo phận, Tiến sĩ Michael Downey cố vấn của ĐHY Mahony về vấn đề thần học và cũng là giáo sư của Đại chủng viện ở đây có nhắc tới một số điều rất quan trọng. Chẳng hạn như đây là lần đầu tiên mà Tổng giáo phận Los Angeles ký văn kiện kết nghĩa giữa hai giáo phận. Những lời Đức hồng y Mahony kể lại khi mà lần đầu tiên ngài sang thăm Việt Nam và từ đó đến nay ngài cũng rất có cảm tình. Hiện thời đang có hai giám mục của tổng giáo phận này đang thăm viếng Việt Nam cùng với hai tân linh mục của giáo phận. Như vậy tỏ ra rằng giáo phận Los Angeles và giáo phận Sài Gòn có một mối liên hệ mật thiết và thân tình, cũng như Đức hồng y đã từng có thời gian du học ở đây. Vậy qua những nhận định đó, Đức hồng y cho chúng con biết cảm tưởng ?

 

Những quen biết. giao lưu sẽ làm cho hai bên hiểu nhau hơn mà đã kết nghĩa với nhau thì coi như trong một gia đình, gần gũi nhau thân thuộc. Những điều đó giúp rất nhiều… Chúa dạy mình phải yêu thương nhưng phải qua những điều cụ thể đó thì mới làm cụ thể tình yêu được, còn chung chung thì nó cứ chung chung thôi, không có cái gì ! Cho nên, tôi nghĩ rằng nó giúp rất nhiều cho việc thể hiện tình huynh đệ tương thân tương trợ trong tương lai.

 

Trong buổi nói chuyện vừa rồi ĐHY Mahony có nhắc đến là năm tới ngài cũng sang thăm giáo phận Sài Gòn, sau đó đến năm 2010 tổ chức Đại Hội Công Giáo toàn quốc Việt Nam, kỷ niệm 350 năm Giáo hội Việt Nam. Đức hồng y có sửa soạn như thế nào trong việc ĐHY Mahony sang thăm Việt Nam và diễn tiến xảy ra như thế nào ?

 

Hôm gặp Đức Tổng Kiệt ở Paris, Đức Tổng Thể, ba Tổng Giám mục Việt Nam ở đó, và có Đức cha Nhơn Chủ tịch chúng tôi gặp Đức hồng y Vingt-Trois, Tổng giám mục Paris, tôi muốn mời ngài. Thành ra chúng tôi tạm thời lên chương trình, và tháng 9 này hội nghị HĐGMVN thông qua mới quyết định chính thức, bây giờ chỉ là dự kiến thôi. Chúng tôi sẽ mời những người có liên hệ với Giáo hội Việt Nam trong suốt mấy trăm năm lịch sử truyền giáo, chúng tôi sẽ mời riêng ra, vì chúng tôi không thể tiếp nổi trong một lúc, mà cũng không phải chỉ dự lễ đó thôi mà đi từ bắc chí nam để các vị đó hiểu biết bộ mặt Giáo hội Việt Nam, và tình hình trong Giáo hội. Chúng tôi phân ra lúc nào sẽ mời các nhà thừa sai Pháp MEP, với Đức hồng y Vingt-Trois, và một ít vị nữa muốn đi Việt Nam chúng tôi cũng sẽ mời một trật. Giáo hội Việt Nam thì có liên hệ với bộ truyền giáo từ xưa, có thể là chúng tôi mời vào ngày bế mạc, còn khúc giữa thì mời các dòng tu như, dòng Tên, dòng Đaminh, dòng Phanxicô, lúc nào đó sẽ mới các vị đó. Tuần rồi ở  Washington DC tôi đã mời Tổng giám mục ở đó… Cho tời bây giờ có thể nói HĐGM Mỹ ít nhất có thể là ba vị sẽ được mời. Vừa rồi, Đức Hồng Mahony có dùng từ được Chúa chúc phúc ban cho nhiều hồng ân thì Đức Tổng giám mục Washington DC cũng nói y như vậy, cộng đoàn công giáo Việt Nam là …của Chúa cho chúng tôi, tôi cám ơn ngài…Trong tương lai chúng ta có thể liên đới hợp tác với nhau để chăm sóc các cộng đoàn Công giáo Việt Nam trên đất nước này, giữ vững niềm tin, những giá trị truyền thống, văn hóa của mình, và nếu chung ta giữ gìn và phát huy được thì mình sẽ làm phong phú cho đời sống của xã hội và Giáo hội ở đây.

 

Chúng con cám ơn Đức hồng y rất nhiều qua buổi nói chuyện hôm nay. Đây là một biến cố lịch sử giữa Tổng giáo phận Sài Gòn cũng như tổng giáo phận Los Angeles. Hy vọng rằng với những bước khởi đầu này đã được bắt đầu từ trước bằng hình thức cụ thể, sẽ tiến tới một bước cụ thể hơn để hai Giáo hội được hiệp thông, và chia sẻ những gì sẵn có, để rồi Giáo hội sẽ luôn luôn giữ được niềm thăng tiến vào cuộc sống đạo để phục vụ Giáo hội toàn cầu.

 

Trần Tâm ghi lại từ VietCatholic Media

Mục lục

HÀNH TRÌNH VỂ PHỐ HIẾN, CHIẾC NÔI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

Hưng Yên, Việt Nam (15/07/2008) -- Một phái đoàn do Ðức Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt dẫn đầu có một chuyến viếng thăm địa danh Phố Hiến nổi tiếng một thời cả ở trong nước lẫn quốc tế, cả trong đạo và ngoài đời.

Cùng đi với Ðức Tổng Giuse còn có Linh mục Tôma Aquinô Nguyễn Xuân Thuỷ, Tổng quản lý giáo phận Hà Nội, và hơn 60 Thầy đại chủng sinh của Tổng giáo phận. Phái đoàn đi trên 2 chiếc xe khách lớn từ Hà Nội đến Thái Bình hôm 15-7-2008 để viếng thăm Ðền thánh Tử đạo Ðông Phú và cũng là Trung tâm chầu Thánh Thể suốt ngày đêm của Giáo phận Thái Bình. Trước khi về lại Hà Nội, phái đoàn đi theo lối quốc lộ 10 và quốc lộ 39 để ghé thăm mảnh đất Phố Hiến đã từng in dấu những bước chân của các nhà truyền giáo đầu tiên đến Việt Nam.

Khoảng 3 giờ chiều, hai Thầy dòng Thánh Tâm đang giúp mục vụ tại Hưng Yên đón phái đoàn tại chân cầu Triều Dương, cây cầu bác qua sông Luộc là nhánh của sông Hồng, ngăn cách giữa tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Ðáng lẽ ra 2 xe ôtô chạy băng băng 5 km nữa là về tới trung tâm thị xã Hưng Yên, nhưng vì mục đích của phái đoàn muốn thăm và tìm hiểu về địa danh Phố Hiến, chính vì thế mà 2 Thầy chỉ dẫn cho đoàn xe lớn đi vào một con đường nhỏ hơn, khó đi hơn, gồ ghề và lầy lội.

Con đường song song với bờ đê sông Hồng kéo dài từ lối rẽ Ba Hàng đi qua một số nhà thờ họ lẻ và nhà thờ giáo xứ Tiên Chu rồi về con đường mang tên Phố Hiến. Quãng đường trước khi đi qua nhà thờ Tiên Chu, xe phải dừng lại để các Thầy bê đá và dùng xẻng san phẳng đống đá giữa đường, nhờ vậy mà xe mới tiếp tục đi. Ðức Tổng ngồi trên xe xen lẫn với các chủng sinh, ngài nói lời tự an ủi và động viên rằng "có thế mới biết được các vị thừa sai ngày xưa đi lại vất vả làm sao...".

Con đường đi qua giáo họ Tiểu, nhìn vào nhà thờ cổ kính có 3 cây đa và tượng đài Ðức Mẹ La Vang mới xây dựng. Qua giáo họ Hôm, nhà thờ kính thánh Giuse cũng cổ kính nằm ven đường. Liền sau đó, hiện ra trước mắt là ngôi nhà thờ giáo xứ Tiên Chu được xây dựng từ năm 1934 với ngọn tháp sừng sững vươn cao giữa những lùm cây nhãn trĩu quả và lá xanh mướt. Giáo dân quanh đây rất ít, chỉ có khoảng từ 12 đến vài chục người Công Giáo.

Ðoàn xe đang đi giữa quê hương của đặc sản long nhãn Phố Hiến - Hưng Yên. Những ruộng lúa biến thành những vườn cây trồng nhãn đại trà, những ao hồ biến thành những đầm trồng muồng để làm nút chai. Chính vì thế, ở đây không còn cây lúa, nếu có thì chỉ còn rất ít, cơm áo của họ lúc này chỉ cậy nhờ vào những chùm nhãn đang vào kỳ đen hột.

Ðức Tổng và các chủng sinh được giới thiệu về một vùng quê ven đê sông Hồng, cũng là vùng ven thị xã Hưng Yên, chính nơi đây nằm trong quần thể di tích Phố Hiến mà ngày nay Việt Nam đang có ý định đầu tư tôn tạo. Thẳng trục đường từ làng Bầu - Tiên Chu - Hồng Nam là đến con đường mang tên Phố Hiến. Trên con đường nhỏ bé này, nhà san sát nhau, thay thế những ngôi nhà cổ là những căn nhà ống mái bằng hoặc tầng lầu thời đô thị hoá, hiếm thấy ngôi nhà cổ nào, chỉ còn lại một vài ngôi đình, đền và miếu mang dáng dấp kiểu cách Á Ðông của người Việt và người Hoa ngày xưa để lại.

Dọc theo chân đê vùng, nối tiếp đường Phố Hiến là đến con đường mang tên Bãi Sậy, vẫn còn những đền chùa và một vài cây cổ thụ. Ðoàn xe đi qua hồ Bán Nguyệt, tương truyền rằng chiếc hồ có hình một nửa vầng trăng này là dấu tích còn lại của dòng sông Xích Ðằng ngày xưa, nơi tấp nập thuyền bè cỡ nhỏ của các thương gia và người mua hàng. Do lũ lụt mỗi năm, hàng triệu tấn đất phù sa từ thượng nguồn sông Hồng đổ về và bồi đắp, cho nên sông Xích Ðằng ngày ngày biến dạng và mất hẳn.

Ði qua tiếp hồ Bán Nguyệt là tới nhà thờ giáo xứ thị xã Hưng Yên. Giáo xứ này nguyên là giáo họ Nam Hoà của giáo xứ Tiên Chu ngày xưa. Nhà thờ Công Giáo duy nhất nằm trong nội thị Hưng Yên được xây từ năm 1898, vẫn còn giữ nguyện những đường nét gothic xen lẫn kiểu dáng Á Ðông, bên trong nhà thờ vẫn còn bàn toà sơn son thiếp vàng và cột kèo bằng gỗ lim.

Ðức Tổng và phái đoàn xuống xe bước vào nhà thờ. Có vài chục giáo dân đang đón chờ sẵn vỗ tay chào mừng. Ðức Tổng cùng với mọi người quỳ gối trước gian cung thánh, hát về Thánh Thể và thinh lặng cầu nguyện trong giây lát. Tiếp đến, ngài an toạ và cùng trò chuyện với cộng đoàn bé nhỏ Hưng Yên tại nhà thờ.

Thầy Giuse Vũ Ngọc Cương của dòng Thánh Tâm đã giới thiệu một cách khái quát về Giáo hạt Hưng Yên và về lịch sử địa danh Phố Hiến cho phái đoàn nắm bắt và hiểu biết thêm. Kết thúc phần giới thiệu, cả nhà thờ cùng hát bài "Ðẹp thay" để tưởng nhớ đến những nhà truyền giáo đầu tiên ngày xưa đã đặt chân đến mảnh đất Phố Hiến này.

Trong phần giới thiệu của mình, Thầy Cương cho biết: Hạt Hưng Yên bao gồm hầu hết tỉnh Hưng Yên, trừ một phần nhỏ thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội và một phần nhỏ khác thuộc Giáo Phận Hải Phòng. Giáo hạt có 20 giáo xứ, 8 linh mục. Là một giáo hạt có nhiều giáo xứ nhất nhưng lại có ít giáo dân nhất vì biến cố 1954 đã khiến cho nhiều giáo xứ chỉ còn lại một số gia đình Công Giáo.

Giáo hạt đang có sự hiện diện và phục vụ của các tu sĩ dòng nữ Ðaminh Thái Bình, dòng Mến Thánh Giá Tân Lập, và gần đây có thêm các nữ tu dòng Phaolô, anh em dòng Thánh Tâm Huế và một số dòng tu khác cũng đang bắt đầu hiện diện để làm việc truyền giáo và tái truyền giáo tại đây.

Với địa bàn rộng, số linh mục và tu sĩ lại hạn chế, trong khi giáo dân phải vật lộn với cuộc sống kiếm ăn, giới trẻ ít có cơ hội được học hỏi về giáo lý. Do vậy tình trạng chung tại giáo hạt này đang còn nhiều trường hợp mắc ngăn trở hôn nhân Công Giáo, lòng đạo chưa được vững mạnh vì hơn nửa các giáo xứ ở đây từ năm 1954 đến nay chưa có linh mục coi sóc.

Năm 1936, giáo phận Thái Bình được tách ra từ Bùi Chu, Ðức Cha Casado Thuận, giám mục tiên khởi của Giáo phận Thái Bình đã cho xây dựng một trường đào tạo các thầy giảng, quen gọi là trưởng Kẻ Giảng Hưng Yên. Cơ sở tôn giáo này toạ lạc tại 126 Phạm Ngũ Lão, nội thị Hưng Yên, hiện nay đang bị nhà nước trưng dụng làm nơi đào tạo bổ túc kiến thức cho các học viên tại chức. Toà Giám Mục Thái Bình đã và đang gửi đơn tới chính quyền địa phương để xin sử dụng lại cơ sở tôn giáo này.

Ông Giuse Dương Thái Hùng, chủ tịch Hội đồng Mục vụ giáo xứ Hưng Yên, đã giới thiệu ngắn gọn về giáo xứ của mình. Ông nói: "Giáo xứ thị xã Hưng Yên chúng con vinh dự được gắn liền với quần thể di tích Phố Hiến. Nhà thờ hiện nay đã tròn 110 tuổi, được xây dựng từ năm 1898, nằm ở trung tâm thị xã, trên trục đường từ Phố Hiến đến văn miếu Xích Ðằng".

Ông Hùng cho biết, giáo xứ có 5 họ lẻ, với tổng số 431 nhân danh, trong đó tình trạng mắc ngăn trở hôn nhân Công Giáo chiếm 30%. Giáo dân sống rải rác trên 10 phường xã, có một số đoàn hội trong giáo xứ nhưng chỉ mang tính hình thức chứ chưa có hoạt động và phong trào thiết thực gì. Toàn thị xã có khoảng hơn 4 vạn dân, người Công Giáo chiếm tỉ lệ khoảng 1%. Cuộc sống của bà con giáo dân chủ yếu làm nông nghiệp, buôn bán vặt, làm thuê; nhìn chung hết đói nghèo nhưng kinh tế chưa khá.

Trước đây, giáo xứ có Cô Nhi Viện, nay nhà nước lấy làm Trung tâm y tế thị xã. Có nhà phước 2 tầng, nay nhà nước làm ngân hàng Phố Hiến. Các dãy nhà xung quanh nhà thờ, đều bị nhà nước quản lý và cho dân ở thuê cho đến nay.

Ông nói tiếp rằng: "Sau biến cố 1954, toàn tỉnh Hưng Yên chỉ có 2 Cha coi sóc mục vụ. Năm 1957 chúng con có Cha cố Tình ở tại giáo xứ và trông coi nhiều giáo xứ khác, cho đến năm 1971 thì Cha Tình qua đời. Từ đó, suốt 23 năm chúng con không có Cha xứ coi sóc. Ðến năm 1994, Ðức Cha giáo phận bổ nhiệm thêm Cha Vinh-sơn Phạm Văn Tuyên về Hưng Yên coi sóc giáo xứ chúng con, cho đến ngày 4/6/2008 vừa qua, Toà Giám Mục thuyên chuyển Cha Tuyên về coi giáo xứ Trung Châu và bổ nhiệm Cha Ðaminh Bùi Ngọc Hải về làm chánh xứ thị xã Hưng Yên chúng con hôm 11/6 vừa qua".

Ông Hùng làm trưởng ban hành giáo gần 20 năm nay nói thêm rằng: "Vì tình trạng thiếu Linh mục và Tu sĩ tại tỉnh Hưng Yên này và do nhiều nguyên nhân khác nữa mà giáo xứ chúng con hiện đang yếu kém về mọi mặt như phong trào đoàn hội, đời sống đức tin lung lay, nhiều gia đình mắc ngăn trở hôn nhân Công Giáo, một số bỏ đạo, không có lớp học nào dạy giáo lý cho giới trẻ, đất đai của giáo xứ bị chiếm dụng. Chúng con hy vọng rằng, nhờ lời cầu nguyện và sự quan tâm của Ðức Tổng Giám Mục, của Ðức Cha và Toà giám mục Giáo phận Thái Bình, cộng với sự trẻ trung năng động của Cha tân chánh xứ và sự hiện diện của các dòng tu, giáo xứ chúng con sẻ được đổi thay và giải quyết được những khó khăn phức tạp".

Trong lời huấn dụ của mình, Ðức Tổng cho biết mục đích của ngài và phái đoàn đến đây là để ôn lại bước chân của các nhà truyền giáo và cũng là để thăm anh chị em giáo hữu ở Phố Hiến - Hưng Yên. Ðức Tổng nói: "Ngày xưa các vị truyền giáo gặp rất nhiều khó khăn mà vẫn đi đến đây. Việc đầu tiên các ngài đã làm là việc đào tạo nhân sự ngay trên thuyền khi chưa thể đặt cơ sở trên đất liền. Thời đó rất khó khăn, tuy nhiên các ngài đã cố gắng hết sức mình làm việc truyền giáo và đã đạt được nhiều kết quả tốt cho Giáo Hội sau này".

Vị giám chức đứng đầu Giáo tỉnh Hà Nội nói tiếp rằng: "Khi đến đây, tôi rất cảm động vì được đi trên một mảnh đất in dấu chân của các nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân đến Việt Nam. Buổi họp Công Ðồng đầu tiên tại đây để ấn định chương trình của Giáo Hội Việt Nam còn quá non trẻ lúc bấy giờ, cả nước chỉ có 2 giáo phận, nơi chúng ta gọi là giáo phận đàng ngoài cũng chỉ có mấy linh mục. Các ngài đã họp nhau để đưa ra kế hoạch bàn luận chương trình, kế hoạch truyền giáo, cách tổ chức hanh chánh, cách đào tạo chủng sinh. Các ngài luôn ở trong tình trạng khó khăn như nghèo nàn về mặt nhân sự và tiền của, làm việc lén lút, nhưng vẫn luôn hăng say, điều đó khiến tôi rất cảm động khi đi trên mảnh đất thiêng liêng này".

"Chúng tôi rất thông cảm với anh chị em ở tỉnh Hưng Yên này, so với Thái Bình còn gặp nhiều khó khăn hơn, vì biến cố năm 1954 nhiều người Công Giáo đã bỏ đi hầu hết, để lại một cộng đoàn rất là yếu kém. Nhưng chúng ta nhìn lại, so với thời các nhà truyền giáo ngày xưa thì chúng ta còn thuận lợi và dễ dàng hơn nhiều, vậy mà các ngài vẫn gầy dựng lên một Giáo Hội vững mạnh cho đến ngày nay. Như vậy, không có lí do gì mà chúng ta phải than phiền về những khó khăn hiện tại của mình nữa. Chúng ta hãy noi gương các nhà truyền giáo và lấy làm hãnh diện cũng như tự hào vì mình đang ở trên mảnh đất là một trong những cái nôi của Giáo Hội".

"Hôm nay chúng ta có cơ hội được ôn lại những dấu tích lịch sử ngày xưa của Giáo Hội tại Phố Hiến này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khơi dậy tinh thần truyền giáo, có lòng hăng hái, phó thác, quên mình, nhớ ơn các bậc tiền nhân và quyết tâm làm được một việc gì đó trong hoàn cảnh của mình rồi Chúa sẽ làm những việc còn lại. Ðó là một vài chia sẻ và cũng là động viên chính bản thân mình. Xin Chúa ban ơn cho tôi và cho anh chị em, noi gương các bậc tổ tiên làm việc tái truyền giáo tại vùng Hưng Yên và cả Giáo Hội Việt Nam mình".

Sau lời của Ðức Tổng, Cha Phêrô Nguyễn Thái Vạn của dòng Thánh Tâm, đại diện cho Cha chánh xứ Hưng Yên là Ðaminh Bùi Ngọc Hải đang đi công tác xa, bày tỏ tâm tình biết ơn đối với Ðức Tổng và phái đoàn vì đã giành thời gian ghé thăm và ban lời động viện cộng đoàn giáo xứ. Rồi Cha Vạn dẫn Ðức Tổng đi quanh nhà thờ để nhìn toàn bộ khuôn viên giáo xứ.

Theo sự chỉ đạo từ xa của Cha xứ Bùi Ngọc Hải, cộng đoàn Hưng Yên mời Ðức Tổng và phái đoàn vào nhà xứ uống nước, nói chuyện và nghỉ ngơi một chút trước khi lên đường trở về Hà Nội lúc chiều tối. Nữ tu Bề trên Cộng đoàn Phaolô Võng Phan, Soure Maria Trần Thị Tính, đã chuẩn bị một món quà đặc sản quê hương Phố Hiến để dâng tặng Ðức Tổng và phái đoàn.

Ðược biết, việc cho các chủng sinh chia phiên đi giúp mục vụ tại các trại phong cùi trong những ngày hè là chủ trương và sáng kiến của Ðức Tổng Giuse trong những năm gần đây. Lần này, chính Ðức Tổng lại dẫn đầu một đội ngũ chủng sinh hơn 60 Thầy của Tổng Giáo Phận Hà Nội đi đến các vùng miền địa phương để thăm quan và học hỏi. Dư luận ít nhiều cũng đã bình luận về động thái này của vị lãnh đạo Giáo Hội tại miền bắc Việt Nam.

Nói đến Hưng Yên, ai cũng nhớ ngay đến Phố Hiến. Vào các thế kỷ 17-18, nơi đây là một thương cảng nổi tiếng của Việt Nam. Lúc ấy, phố Hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng. Theo đường sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh đô mất 3 ngày. Hồi đó Phố Hiến là thủ phủ của trấn Sơn Nam, bao gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Ðịnh, Hưng Yên và Thái Bình ngày nay.

Ðoạn sông ngày xưa chảy qua Phố Hiến gọi là sông Xích Ðằng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách dòng sông khoảng chừng 2 km. Ngày nay phố Hiến toạ lạc trên địa bàn thị xã Hưng Yên, với diện tích rộng khoảng 5km vuông.

Tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 15. Khi đó, trong công cuộc cải cách hành chính của mình, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã chia nước thành 12 Thừa tuyên. Ở mỗi Thừa tuyên có lập một ty Hiến sát sứ trông coi việc kiểm sát và giám sát, trong đó có việc kiểm soát các thuyền bè đi lại trên sông. Người dân đã lấy tên Phố Hiến để đặt cho khu phố chợ đang tồn tại hồi đó vì có thêm lị sở của ty Hiến sát sứ đặt ở đấy.

Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một đô thị sầm uất, nổi tiếng trong cả nước, một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ xứ Sơn Nam, ty Hiến sát sứ Sơn Nam, các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây.

Phố Hiến là đô thị của các thương gia người Việt và ngoại quốc, vì vậy nó mang những nhu cầu tâm linh văn hoá của nhiều cộng đồng người khác nhau, thể hiện qua những công trình kiến trúc. Có thể nói, đã có một thời kỳ trong lịch sử mà Phố Hiến đã là một đô thị đa văn hoá và mang dáng dấp quốc tế. Nhiều công trình kiến trúc mang sắc thái và kiểu dáng Á đông như Chùa, Ðền, Ðình, Miếu của người Việt và người Hoa. Hoặc có công trình kiến trúc kiểu tây âu như nhà thờ Công Giáo.

Theo tài liệu lịch sử của Giáo Hội, một sự kiện đáng nhớ gắn liền với Phố Hiến, đó là vào năm 1670, Ðức Cha Lambert De La Motte nhóm họp Công Ðồng Ðàng Ngoài đầu tiên tại đây. Tham dự Công Ðồng có Cha chính Deydier, hai thừa sai Pháp De Bourges và Bouchard, và chín linh mục Việt Nam là các cha Biển Ðức Hiền, Gioan Huệ và bảy tân linh mục. Công Ðồng có mục đích phổ biến những nghị quyết của Tòa Thánh về trách nhiệm và quyền bính của các vị Ðại diện Tông Tòa, tổ chức các mặt sinh hoạt tôn giáo trong địa phận như: phương pháp truyền đạo, cắt cử các linh mục, tuyển chọn chủng sinh, cũng như đựa ra nhiều chỉ thị về việc ban phát các bí tích. Công Ðồng chính thức nhận thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội. Một bản Huấn thị gồm 33 điều, phần nhiều giống như bản "Huấn thị" Juthia (1664), chỉ sửa đổi cho thích hợp với sinh hoạt địa phương. Công Ðồng quyết định chia địa phận Ðàng Ngoài thành chín hạt và nhóm họp hội nghị hằng năm. "Công vụ Công Ðồng Dinh Hiến" được Ðức Thánh Cha Clêmentê X châu phê trong Tông chiếu "Apostolatus Officium" ngày 23.12.1673.

Sau Công Ðồng Dinh Hiến (Phố Hiến), Ðức Cha Lambert quan tâm soạn thảo bản nội quy và quyết định ban sắc chính thức thành lập dòng các chị em Mến Thành Giá tại Kiên Lao (Nam Ðịnh) và Bái Vàng (Hà Nam). Chính Ðức Cha soạn thảo bản Hiến Pháp cho dòng và cũng chính ngài nhận lời khấn của 2 nữ tu tiên khởi dòng Mến Thánh Giá là Chị Inê và Chị Paola.

Mọi phản hồi về bản tin này, xin quý độc giả gửi thư về cho tác giả qua Ban Truyền Thông Giáo phận Thái Bình theo địa chỉ Email: bttthaibinh@gmail.com.

 

Ðàm Nguyên

Mục lục

 

Thánh Lễ Tạ Ơn kết thúc Lớp Ca Trưởng Cấp 3 Tại Sài Gòn

 

Sài Gòn: Chiều thứ bảy 19.07.2008 tại nhà thờ Đaminh Ba Chuông, hạt Phú Nhuận thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã đến chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp kết thúc lớp Ca Trưởng Cấp 3 do Gs-Ns Phạm Đức Huyến từ Hoa Kỳ về giảng dạy, đồng tế cùng Đức Tổng còn có linh mục Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Vinhsơn Phạm Trung Thành, lm Anrê Đỗ Xuân Quế, nguyên Trưởng Ban Thánh Nhạc TGP Sài Gòn và một số linh mục trong tu viện Anbetô thuộc Dòng Đaminh Việt Nam.


Ngỏ lời chào mừng trước thánh lễ, lm Giuse Phạm Hưng Thịnh, bề trên tu viện cũng là chánh xứ Đa Minh đã nói: “Chúng con thật vinh dự chào đón Đức TGM Giuse đã đến đây dâng thánh lễ tạ ơn Chúa cùng với chúng con, Đức Tổng đã luôn quan tâm đến các hoạt động về thánh nhạc sự hiện diện của Đức Tổng hôm nay là sự động viên và khuyến khích chúng con để chúng con làm tốt bổn phận của mỗi ca trưởng hầu giúp cho mọi người khi đến tham dự thánh lễ thêm sốt sắng hơn…”

 

Chia sẻ trong thánh lễ, Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã nói: “ Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta các nghệ sĩ hoạt động trong lảnh vực nghệ thuật và cách riêng những người hoạt động trong thánh nhạc…” ngài nói tiếp về dụ ngôn, về Nước Trời và về sự khiêm nhường: Trên thế giới luôn có người tốt, người xấu, trong cộng đoàn có những người tích cực và những người tiêu cực… chấp nhận những điều đó để chúng ta có lòng khiêm nhường. Lúa cũng kiên nhẫn chờ đợi cỏ lùng. Chúa cũng chờ đợi, chờ đợi thế giới ngày càng hoàn hảo hơn. Thiên Chúa luôn luôn kiên nhẫn và lòng khoan dung vô biên. Ngài luôn chờ đợi chúng ta. Khi chứng kiến lớp Ca Trưởng Cấp 3 ở hai miền Nam-Bắc, tôi nhận thấy và học được nhiều điều ở họ: Các anh chị rất khiêm nhường và các nhạc sĩ hoạt động thánh nhạc cũng rất khiêm nhường, thái độ luôn khiêm tốn, họ phục vụ trong âm thầm luôn kiên nhẫn và rất bền bĩ trong việc đào tạo. Những người hoạt động thánh nhạc luôn tin tưởng sẽ làm được những điều tốt đẹp, giúp cho ca đoàn, cộng đoàn thêm sốt sắng. Thiên Chúa sẽ luôn chúc lành chotất cả chúng ta, sẽ ban cho chúng ta thêm nhiều ca trưởng để phục vụ Chúa trong lãnh vực thánh nhạc…”


Thánh lễ diễn ra thật sốt sắng và điều đặc biệt nhất chưa từng có là ca đoàn hát lễ gồm tất cả các anh chị trong lớp CT Cấp 3! người điều khiển ca đoàn đặc biệt này là Gs-Ns Phạm Đức Huyến và Ca Trưởng Đinh Thiện Bản. Thánh lễ sốt sắng một phần vì các anh chị CT hát Bộ lễ De Angelis. Những người tham dự thánh lễ chiều nay thấy lòng thật sốt sắng và thánh thiện hơn vì đã lâu lắm rồi mới được nghe lại những giai điệu Bình ca thật du dương, nhẹ nhàng, thanh thoát, có những ông bà cụ lớn tuổi hát theo một cách say sưa… những bài thánh ca của nhạc sư Hải Linh và nhạc sĩ Phạm Đức Huyến được hát lên bằng sự điêu luyện của những người ca trưởng quả thật đã làm lay động lòng người!


Sau thánh lễ, các học viên đã có buổi gặp gỡ thân mật với Đức TGM Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt, ngài cũng đã trao quà và bằng chứng nhận cho các học viên xuất sắc, nhân dịp này một nhóm các ông bà thuộc ca đoàn Hồn Nước mà ngày xưa đã do chính nhạc sư Hải Linh thành lập cũng đã đến giao lưu và sinh họat chung cùng các học viên…


Dù thời gian học căng thẳng và gấp rút do nhạc sĩ Phạm Đức Huyến chỉ ở Việt Nam trong thời gian khoảng một tháng mà phải dạy cả hai miền Nam-Bắc, nhưng tôi nhận thấy các học viên học rất hăng hái và có lẽ một phần do Ban Tổ Chức rất chu đáo luôn bồi dưỡng các anh chị học viên bằng những tách cà phê giữa buổi, những ly chè ngọt mát làm tinh thần thêm phấn khởi dễ tiếp thu bài hơn và một phần cũng do Ban Giảng Huấn là các vị Giáo sư nổi tiếng và đầy tài năng ngoài Gs-Ns Phạm Đức Huyến đầy nhiệt tâm luôn muốn cống hiến cho đời tất cả những gì mình có và như những giờ lên lớp của Gs-Ts Trần Văn Khê, Gs-Ns Ca Lê Thuần, Lm-Ns Kim Long, Nhạc trưởng Trần Vương Thạch, Ns Nguyễn Bách, Nghệ sĩ Bích Hồng, nhà thơ Lê Đình Bảng v.v… đã làm cho các học viên lớp CT Cấp 3 này được kín múc thật nhiều kiến thức quý giá để mai này có thể mang ra phục vụ cho cộng đoàn nơi mình sinh hoạt. Nói như Ns Phạm Đức Huyến là: “ Các anh chị sẽ là những người làm cho ca đoàn của mình hát hay hơn, tâm tình hơn giúp cho cộng đoàn nâng tâm hồn mình lên gần với Chúa hơn! “

 

Lê Kim

Mục lục

 

Chương trình phát thanh của giáo xứ giúp người Công giáo làm giàu kiến thức về Giáo Hội


GIỒNG RIỀNG, Kiên Giang -- Mỗi ngày, em Maria Hồ Thanh Thảo tranh thủ đến Nhà thờ giáo xứ Hoà Hưng, thuộc huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, sớm để nghe chương trình phát thanh của giáo xứ. Em cho biết vì nhà em cách nhà thờ 2 km nên ở nhà không thể nghe rõ chương trình phát thanh vì chương trình chỉ được phát qua các loa đặt trong khuôn viên nhà thờ.


Nữ tu Jeanne Françoise Nguyễn Thị Phấn, năm nay đã 73 tuổi, làm chương trình này từ năm 2005, là một trong hai nữ tu chịu trách nhiệm sản xuất chương trình thuộc dòng Chúa Quan Phòng, cho biết chương trình dài 30 phút, khá đa dạng, gồm bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật, suy niệm, câu chuyện về các Thánh, câu chuyện của bé, trang Thánh Kinh, nhạc theo yêu cầu, giải đáp thắc mắc, trò chơi và tâm tình của bé dâng Chúa. Chương trình được thu âm vào thứ ba và cho phát trước các lễ sáng và chiều vào các ngày thứ tư, thứ năm, thứ bảy và Chúa Nhật. Phụ giúp các nữ tu biên tập và thu âm chương trình còn có 2 giáo lý viên và 7 thiếu nhi trong xứ.


Chị Phấn cho biết chương trình thu hút nhiều thiếu nhi và khích lệ các em học giáo lý. Chương trình còn giúp các em bớt xem tivi và các trò chơi điện tử. Không chỉ làm nhiệm vụ phát thanh, chương trình còn trao phần thưởng gồm vở và viết cho các em có lời nguyện hay nhất hoặc trả lời đúng các câu đố Kinh Thánh trong chương trình.


Giáo lý viên Phêrô Nguyễn Hoàng Tèo nói rằng các em học sinh giáo lý nhà ở gần và siêng đến nhà thờ nghe chương trình phát thanh thì nhạy bén và hăng hái phát biểu hơn, làm cho giờ học sôi động hơn. Anh Tèo, phụ trách mục Tin Mừng Chúa Nhật, cho biết chương trình tập cho anh thói quen đọc Lời Chúa và cầu nguyện mỗi tối.


“Chương trình phát thanh giúp em nhớ lại những bài giáo lý đã học. Hơn nữa, qua chương trình, em biết thêm các câu chuyện của các thánh” - Thảo, 15 tuổi, nói với UCA News hồi tháng 6. Em cho biết sau khi nghe chương trình, em kể lại các câu chuyện về các thánh, thánh ca và lời nguyện cho các cháu ở nhà nghe, vì ở nhà không có sách truyện dành cho thiếu nhi.


Maria Châu Cẩm Tú, 15 tuổi, thì thích nghe chương trình phát thanh của giáo xứ hơn chương trình phát thanh của huyện. Em nói: “Những bài hát về mùa Chay được phát trong chương trình giúp em sám hối”.


Phan Nhật Tài, 14 tuổi, đang học lớp giáo lý Thêm Sức, lại nhận thấy chương trình phát thanh giúp em hiểu rõ hơn về tiểu sử các thánh và học được nhiều bài học trong cuộc sống như sống tốt bụng, giúp đỡ người nghèo, không được tham lam, không làm những việc xấu hay nói tục. Em còn còn nhờ chương trình phát các bài thánh ca làm quà tặng bố mẹ nhân dịp sinh nhật của bố mẹ, vì em không có tiền để mua hoa hay quà.


Phát thanh viên chuyên mục Tâm tình bé dâng Chúa, Anna Trần Mạnh Uyên, nói em rất thích công việc này, vì em được đọc rất nhiều lời cầu nguyện hay và dễ thương của các bạn. Em cũng xin cho ba mẹ được khoẻ mạnh, hoà thuận, còn chị em trong nhà thì chăm ngoan và học giỏi.


“Nhờ chương trình phát thanh mà đứa con trai 17 tuổi của chị siêng đọc truyện các thánh, Lời Chúa, tham dự thánh lễ và học giáo lý” - Chị Anna Bùi Trúc Ly, 38 tuổi, cho biết. Chị nói thêm rằng chị rất vui vì con chị muốn đi tu làm linh mục.


Theo Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Khanh, năm nay 58 tuổi, nguyên là Cha sở Giáo xứ Hoà Hưng, thì chương trình phát thanh nhắc thiếu nhi trong xứ nhớ các ngày lễ và tham dự Thánh lễ hằng ngày và các lớp giáo lý, bên cạnh đó, chương trình còn giúp đem Lời Chúa đến cho giáo dân và người ngoại đạo trong vùng. Cha nói rằng nhiều tín đồ của các tôn giáo khác thích chương trình này và hỏi mượn ngài Kinh Thánh.


Linh mục tân quản xứ Tôma Nguyễn Hoàng Phương nói rằng ngài sẽ duy trì chương trình phát thanh này. Ngài nói nhiều người Công giáo ở đây xin ngài phát lại chương trình sau khi chương trình bị ngưng từ ngày 6-15/7 do bị cúp điện.


Chương trình phát thanh của Nhà thờ Giáo xứ Hoà Hưng đã có từ năm 1991 do sáng kiến linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Khanh. Cha Khanh làm cha sở Giáo xứ Hoà Hưng cho đến khi chuyển đến Giáo xứ Phú Hoà ngày 11-6 năm nay. Trước đó, họ thường thu và phát trực tiếp, nhưng 2 năm qua, họ dùng máy vi tính để thu âm.


Giáo xứ Hoà Hưng hiện có 4.000 giáo dân trong tổng số 20.000 dân.


UCAN

Mục lục

Thánh Lễ An Táng Cha Cố Inhaxio Mai Xuân Hậu

 

Thứ ba 22/07/2008 tại Giáo xứ Hà Đông, hạt Xóm Mới đã cử hành Thánh Lễ an táng Cha cố Inhaxiô Mai Xuân Hậu. Thánh lễ do Đức Hồng Y GioanBaotixita Phạm Minh Mẫn chủ tế. Cùng đồng tế với Đức Hồng Y còn có hơn 170 linh mục bề trên, con con cái và học trò của Cha Inhaxio.

 

Cha Ignatio sinh ngày 05/ 05/ 1923 tại làng Thọ Cầu, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Ngài là con thứ ba trong gia đình có sáu anh chị em. Ngay từ tấm bé song thân ngài đã muốn dâng ngài cho Chúa trong đời sống Linh mục nên lên chín tuổi đã gửi ngài cho người anh Linh mục chăm sóc nuôi trồng ơn gọi là cha Stêphanô Mai Xuân Mẫn và người em sau này cũng là Linh mục là cha Antôn Mai Xuân Khoa. Dưới sự chăm sóc và hướng dẫn của hai cha mà ơn gọi của cha Ignatiô ngày càng triển nở. Năm 13 tuổi vào trường tập, rồi vào Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên Hà Nội năm 17 tuổi. Năm 1945 nhập học Ðại chủng viện Xuân Bích Liễu Giai, Hà Nội. Sau thời gian dài tu học từ nhỏ ngày 30 tháng 05, năm 1953 được thụ phong Linh mục và được bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu chủng viện Piô XII Hà Nội.


 Sau biến cố di cư 1954 cùng với chủng viện vào Miền Nam, Ngài tiếp tục dạy tại chủng viện Piô sau chuyển qua Tiểu chủng viện Sài gòn. Năm 1970 về làm chánh xứ Hà Ðông. Ngài phục vụ Giáo xứ Hà Ðông cho đến ngày  15 tháng 11 năm 2001 về nghỉ hưu tại nhà hưu các Linh mục Hà nội. Sau 55 năm sống sứ vụ Linh mục, Chúa đã gọi Ngài về lúc 18 giờ ngày 17 tháng 07 năm 2008. Hưởng thọ 85 tuổi.

 

Trong 55 năm Linh mục phục vụ Giáo Hội Ngài đã đảm đương nhiều trách vụ ngoài công tác giảng dạy, phó giám đốc chủng viện và chánh xứ Hà Ðông, Ngài còn làm Quản Hạt Xóm mới, cố vấn của Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Suốt cuộc đời Linh mục Ngài luôn dấn thân hết lòng phục vụ Giáo Hội qua các trách vụ của Giáo phận và bề trên trao phó. Với lòng nhiệt thành yêu mến Giáo Hội và vì sự phát triển của Giáo Hội, Ngài luôn quan tâm đến việc nuôi trồng, đào tào ơn gọi Linh Mục và Tu sĩ. Qua sự hướng dẫn và chăm sóc của Ngài nhiều người đã trưởng thành trở nên những Tu sĩ, Linh mục, Giám mục đảm nhận những trách vụ quan trọng trong Giáo hội.

 

Linh cửu cha Inhaxiô được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa và hài cốt được lưu tại nhà hài cốt giáo xứ Hà Đông.

 

Trầm Tâm

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

LÁ THƯ MỤC TỬ CỦA ĐỨC HỒNG Y, TỔNG GIÁM MỤC SÀI GÒN

 

TOÀ TỔNG GIÁM MỤC

Thành phố HỒ CHÍ MINH

 

Ngày 15 tháng 7 năm 2008

 

Kính gởi : Anh em linh mục

Anh chị em tu sĩ và giáo dân

thuộc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh

 

Anh chị em thân mến,

1.         Tôi xa giáo phận đến nay đã hơn một tháng. Tuy xa nhà nhưng tôi luôn cảm thấy gần gũi với anh chị em vì biết rằng anh chị em vẫn thường xuyên cầu nguyện cho tôi, và tôi cũng luôn nhớ đến anh chị em trong kinh nguyện hằng ngày. Chính đức tin và đức ái dẫn chúng ta vào mối hiệp thông sâu xa đó, mối hiệp thông vượt trên mọi ngăn cách không gian và thời gian. Cũng trong mối hiệp thông đó, tôi muốn chia sẻ với anh chị em về những công việc tôi đã làm trong thời gian vừa qua.

2.         Tôi rời Việt Nam ngày 5.6, trước hết để đến Paris, Pháp, nhân dịp kỷ niệm 350 năm ngày thành lập Hội Thừa Sai Paris (MEP). Các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris đã đóng góp nhiều công sức cho công cuộc truyền giáo và xây dựng Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, và ngày nay các ngài vẫn tiếp tục giúp đỡ Giáo Hội chúng ta cách tích cực, đặc biệt trong việc đón nhận và chăm sóc cho các linh mục Việt Nam được gửi sang Pháp tu học. Chính vì thế, cùng với một số giám mục Việt Nam, tôi đến đây để bày tỏ lòng biết ơn đối với các ngài, đồng thời cũng ý thức hơn về trách nhiệm loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh xã hội hiện nay của chúng ta. Nhân dịp đến Paris, tôi cũng đã có cơ hội gặp gỡ một số linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc cộng đồng công giáo Việt Nam tại Paris. Tôi đã trình bày cho mọi người tham dự về Năm Thánh 2010 và định hướng xây dựng Giáo Hội nhân kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Tôi cũng đã được lắng nghe những suy tư, thao thức, băn khoăn và góp ý rất tích cực của nhiều anh chị em nhằm cùng nhau xây dựng Giáo Hội ngày càng là Giáo Hội hiệp thông và tham gia vì loài người.

3.         Rời Paris, tôi đã đến Canada để tham dự Đại hội Thánh Thể quốc tế được tổ chức tại Quebec với chủ đề Thánh Thể, quà tặng của Thiên Chúa cho sự sống của loài người. Thế giới ngày nay phát triển rất nhanh về vật chất và kỹ thuật, thế nhưng nhân loại vẫn đang phải đối diện với nhiều vấn nạn như khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lúc càng lớn, bạo lực và khủng bố lan tràn, đời sống cá nhân và gia đình gặp nhiều khủng hoảng … Đó là vì con người vẫn thiếu Bánh Chân Lý, Bánh Tình Thương. Chúa Giêsu chính là tấm bánh Thiên Chúa ban cho nhân loại để đáp trả những khát khao sâu thẳm nhất của lòng người. Chúng ta cần ý thức điều này ngay trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam của mình. Trong dịp này, tôi cũng có cơ hội gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam đang sinh sống tại Canada, và chúng tôi cũng trao đổi với nhau nhiều điều nhằm củng cố mối hiệp thông giữa cộng đồng công giáo Việt Nam tại đây với Giáo Hội tại quê nhà.

4.         Sau thời gian ở Canada, tôi đã đến Washington D.C., Hoa Kỳ, để tham dự cuộc hành hương do Liên đoàn công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức tại Đền thánh quốc gia của Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ. Ban tổ chức đã mời tôi chủ sự cuộc hội thảo về đề tài Gia đình và giáo dục Kitô giáo, đồng thời chủ sự thánh lễ bế mạc cuộc hành hương. Cuộc hành hương đã diễn ra thật tốt đẹp và Ban điều hành của Liên đoàn đã bày tỏ ước muốn cũng như quyết tâm củng cố mối hiệp thông giữa cộng đồng công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và Giáo Hội tại quê nhà. Tôi rất vui mừng khi nhìn thấy sự phát triển của cộng đồng Công giáo Việt Nam tại đây, và càng vui mừng hơn nữa khi đến thăm Đức Tổng giám mục Washington D.C. và Đức Giám mục Giáo phận Arlington, Virginia, và được nghe các ngài nói lên những nhận xét tích cực về đời sống đức tin của linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ.

5.         Rời Washington, DC, tôi sang Los Angeles, California, để gặp gỡ Đức Hồng Y Mahoney và cùng với ngài ký kết văn bản chính thức xác nhận việc kết nghĩa huynh đệ giữa Tổng Giáo phận Los Angeles và Tổng Giáo phận của chúng ta. Việc kết nghĩa này nhằm mục đích thắt chặt mối hiệp thông giữa hai tổng giáo phận và tương trợ lẫn nhau trong sứ vụ tông đồ. Lễ ký kết đã được tổ chức cách trang trọng tại Văn phòng Tòa Tổng Giám mục, cạnh Nhà thờ chính toà Los Angeles, và tôi hy vọng thời gian sắp tới, chúng ta sẽ có cơ hội đón tiếp Đức Hồng Y Mahoney cùng một số giám mục khác đến thăm giáo phận chúng ta.

6.         Ngoài ra, như anh chị em biết, Nygày Quốc tế Giới Trẻ năm nay được tổ chức tại thành phố Sydney bên Úc từ 15-20 tháng 7. Ba giám mục và một số đông các bạn trẻ từ Việt Nam lên đường sang Úc tham dự đại hội này. Nhân dịp này, tôi đã gửi một lá thư đến ba vị giám mục lãnh trách nhiệm hướng dẫn và cổ võ tinh thần hiệp thông huynh đệ giữa các bạn trẻ Việt Nam từ nhiều đất nước khác cũng đến đây tham dự. Tinh thần hiệp thông đó chỉ có thể phát huy trên nền tảng một niềm tin. Tin vào Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta. Tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng mở lối cho chúng ta thoát khỏi mọi sự dữ. Tin vào Chúa Thánh Thần là nguồn lực Tình Yêu, là nguồn Ánh Sáng và Sức Mạnh dẫn dắt chúng ta tiến bước trên đường từ bi bao dung và hợp nhất nên một. Tôi cũng muốn nhắc lại điều đó với tất cả anh chị em trong giáo phận nhà để chúng ta cùng nhau xây dựng sự hiệp thông và hợp nhất trong gia đình cũng như trong cộng đoàn dòng tu, giáo xứ và giáo phận của mình.

7.         Cuối cùng, theo lời mời của Ban Tổ chức, và nếu sức khoẻ cho phép, tôi sẽ đi Lourdes, Pháp, để cùng với một số vị Bản quyền khác chủ sự cuộc hành hương và Thánh Lễ tôn vinh Đức Mẹ Lộ Đức. Chắc chắn tôi sẽ nhớ đến anh chị em cách riêng trong dịp này. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, nguyện xin ơn bình an và ơn hiệp thông của Chúa Ba Ngôi tuôn đổ dồi dào xuống trên gia đình giáo phận chúng ta.

 

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám Mục

Mục lục

 

CÂU VĂN QUỐC NGỮ CỔ XƯA NHẤT

BÀI GIẢNG THÁNH LỄ MỪNG 364 NĂM  SINH NHẬT TRÊN TRỜI CỦA Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN KHÁNH THÀNH ĐỀN THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN MẰNG LĂNG (25.07.2008)

Trọng kính Đức Cha Giáo Phận

Kính thưa Cha Tổng Đại Diện, Quý Cha Hạt trưởng, Quý Cha trong và ngoài Giáo phận, quý chủng sinh, tu sĩ và toàn thể ông bà anh chị em,

Hôm nay chúng ta lại được một lần nữa long trọng mừng ngày sinh nhật trên trời của Vị Thánh Tử đạo tiên khởi Việt nam, Vị chứng nhân anh hùng của quê hương Phú Yên : Á Thánh Anrê Phú Yên, người mà cố linh mục thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã diễn đạt bằng những vần thơ :

Bạn là hoa của mùa xuân muôn thuở

Không bao giờ tàn úa giữa trời sương

Là nén hương thơm quý của muôn hương

Trước nhan Chúa muôn đời không tàn lụi,...

Cách đây 364 năm, vào chiều ngày 26 tháng 7 nơi Gò Xử Thành Chiêm, Cái chết của người thanh niên Anrê đã quy tụ nhiều người lương, giáo, người bản xứ với kẻ ngoại kiều, để cùng với Thầy hiệp dâng lễ tế mà chính thầy là của lễ, lễ đầu mùa của Hội Thánh Việt nam. Hôm nay, cũng chính trên mảnh đất mà Chân phước Anrê đã chọn làm tên gọi, mảnh đất Phú Yên, tuyến đầu đất nước của một thời mở cõi, Vị Á Thánh trẻ nầy lại quy tụ chúng ta, đông đủ mọi thành phần trong Giáo Hội địa phương, một Giáo Hội được khai sinh từ những giọt máu đào hy tế của Thầy Anrê và bao chứng nhân anh hùng khác, để thêm một lần cùng với Thầy dâng Hy Tế tạ ơn, tạ ơn Thiên Chúa đã ân ban hồng ân tử đạo, tạ ơn Thiên Chúa đã đoái thương mời gọi dân nước Việt nam nhận biết Tin Mừng, tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho vùng đất Phú Yên-Quy Nhơn, dù trãi qua bao thăng trầm dâu bể, cấm cách bách hại, chiến tranh điêu tàn...hôm nay vẫn vàng tươi một mùa lúa mới...

Niềm vui hôm nay, cuộc quy tụ hôm nay như được nhân lên gấp bội so với bao lần gặp gỡ trước, vì hôm nay, ở giữa xứ đạo Mằng Lăng chân quê ẩn khuất, bên dòng con sông Cái vẫn còn dư âm và hình bóng của Dinh Trấn Biên, nơi Á Thánh Anrê được thanh tẩy để nên con cái Chúa, một đền thánh mang tên Ngài được khánh thành, để như một nhắc nhớ muôn đời cho các thế hệ cháu con hãy tiếp bước cùng Ngài trên lộ trình “tình yêu đáp trả tình yêu, mạng sống báo đền mạng sống”.

Vâng, mọi sự rồi có thể nhạt nhòa đi, tiêu tán đi, như Dinh Trấn Biên cho dù có chìm sâu dưới dòng sông Cái, hay đền thánh Anrê Phú Yên hôm nay có thể một ngày nào đó sẽ tiêu tan, nhưng sứ điệp tinh thần của Vị Thánh trẻ, di sản đức tin anh hùng của Anrê Phú Yên sẽ mãi mãi rạng ngời, mãi mãi được nhắc nhớ và truyền tụng, mãi mãi được đào sâu và khám phá xuyên suốt cuộc hành trình của Dân Chúa Phú Yên, Quy Nhơn, Việt nam, như gợi ý trong bài huấn dụ của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vị Giáo hoàng đã tôn phong Anrê Phú Yên lên bậc Á Thánh :

“Do vậy trên 350 năm qua, những người công giáo Việt Nam không bao giờ quên Nhân Chứng Tin Mừng này, Vị Tử Đạo tiên khởi của quê hương họ. Họ đã tìm thấy nơi ngài đức tin kiên định và tình yêu quảng đại cho Đức Kitô và cho Giáo Hội của Ngài. Chớ gì ngày nay họ còn tiếp tục khám phá ra trong tấm gương của một người con đất Việt sức mạnh hướng dẫn người tín hữu về ơn gọi người Kitô hữu, trong việc trung thành với Giáo Hội và quê hương họ. Chân phước Anrê Phú Yên, vì sự nhiệt thành nồng cháy của ngài mà phúc âm được rao truyền, được ăn rễ sâu và được phát triển”.

Nhưng chúng ta khám phá được gì trong một con người mà hưởng dương mới vừa tròn 19. Trong quan niệm văn hóa Đông Phương, đặc biệt theo cái nhìn của Lão giáo, chết yểu là một bất hạnh lớn. Người ta cho rằng chết non, chết yểu là một hình phạt do một tội rất nặng đã phạm ở kiếp trước. Mặt khác, chết mà không có con nối dõi tông đường sẽ chắc chắn bị phạt vào cõi trầm luân để rồi không được ai giỗ chạp lễ kính. Đây còn là tội bất hiếu vì đã cắt đứt sợi dây liên kết các thế hệ của dòng tộc và quốc gia mình.

Á Thánh Anrê Phú Yên giã từ cuộc sống khi vừa tròn 19 xuân xanh. Một cái chết non, chết yểu. Ngài có rơi vào tình trạng đáng buồn như quan niệm tín ngưỡng và đời thường đó không ?

Thưa hoàn toàn không ! Trong nhãn quan Kitô giáo, cuộc sống và nhất là cái chết của Á Thánh Anrê Phú yên hoàn toàn nêu bật một giá trị khác hẳn mà sách Khôn ngoan đã đoan chứng như chúng ta vừa nghe :

“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi ; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang sống an bình. Người đời nghĩ rằng họ bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử”.

Và quả thật, kể từ sau cái buổi chiều loang máu nơi gò Xử Thành Chiêm 26/7/1644, đã có hàng hàng lớp lớp những chàng trai, những cô gái, những nông dân chất phác thật thà như Phaolô Hạnh, những người ông trùm họ như Anrê Kim Thông, Phêrô Lựu, những thanh niên mộng vàng tươi thắm như Tôma Thiện, Giuse Túc, những Giám Mục, linh mục đạo cao đức trọng như Cuetnot Thể, Anrê Dũng lạc, những người khoác áo nhà binh như Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể, những người mang phẩm tước quan quyền như Hồ Đình Hy hay những người mẹ hiền với đàn con dại như Anê Lê thị Thành...tất cả đã lên đường tiếp bước Anrê Phú Yên để con đường đức tin, để “sợi chỉ đỏ Tin Mừng” được tiếp nối và tiếp nối cách vinh quang rạng rỡ.

Quả thật,  “hạt lúa mì Anrê gieo vào lòng đất mẹ Việt nam”, sau 364 năm, hôm nay đã bừng lên một mùa lúa tốt. Anh đã can đảm “mở đường tử đạo” để hôm nay trên bàn thờ Hội Thánh 117 chứng nhân anh hùng hiển thánh quang vinh cùng với cộng đoàn 6 triệu người đang hân hoan nhịp bước.

Tin như thế chưa đủ. Chúng ta còn có thể khám phá nơi cuộc đời tử đạo của Á Thánh Anrê những nhân đức, những con đường gợi mở để tất cả chúng ta cùng học đòi bắt chước hầu nên thánh giữa đời. Và đây là những nẻo đường chúng ta khám phá được qua những chứng từ của những chứng nhân cận kề cuộc sống và nhất là cái chết anh dũng của Anrê Phú Yên :

- Một tình yêu trung tín với Chúa Giêsu và căn cước Kitô hữu.

- Một tình yêu can đảm đón nhận thập giá

- Một tình yêu biết ơn và đáp trả.

- Một tình khiêm hạ phục vụ

- Một tình yêu vui tươi

- Một tình yêu loan báo Tin Mừng.

Chúng ta có thể đọc thấy những chiều kích linh đạo nầy trong nhiều chứng từ đương cuộc, mà lời của chàng thủy thủ Antôniô là một bằng chứng sống động và cụ thể :

«Con thề trên Phúc Âm và hứa nói sự thật về những gì con biết. Con 20 tuổi. Năm nay, con đã xưng tội bốn lần, hai lần ở Việt Nam và hai lần ở tại Macao đây, và con đã chịu mình thánh Chúa. Con sang Đàng Trong hai lần. Con đã biết Anrê, anh ấy là một Kitô hữu đã chịu phép rửa và là giáo lý viên, và ở với cha Đắc Lộ. Anh đã bị bắt tại Hội An trong nhà của cha. Họ đã trói và hành hạ anh, và anh bị đánh đập vì anh theo đạo. Họ đã đem người tù đến Kẻ Chàm. Trước ông quan, anh đã tuyên bố công khai rằng anh có đạo. Vì lý do đó, anh bị tống ngục với một Kitô hữu khác, một ông già tên là Anrê cả. Ông Chúa của nước này đã ra lệnh cho quan phải bắt các Kitô hữu, và giết những ai truyền đạo. Chính vì thế mà người ta đã bắt Anrê, và đã xử tử anh. Những người Bồ Đào Nha chúng con không thể làm gì được cho anh. Còn anh Anrê thì đã vui vẻ đón nhận bản án ấy. Họ đã đem anh đi đến cánh đồng ngoài thị trấn với một cái gông trên lưng.

Họ đã đâm và chặt đầu anh. Trong lúc đó, Anrê vẫn tuyên xưng đức tin và Chúa Giêsu Kitô một cách kiên trì. Trước khi chết, anh nói lớn : “Em chết vì em có đạo chứ không phải vì em đã phạm một tội gì.”

Người ta đã đón lấy xác và máu của anh một cách kính cẩn, như là xác và máu của một vị tử đạo. Con vẫn còn có một xâu chuỗi của anh : con kính cẩn và quý mến giữ nó. Con chắc chắn rằng anh bị xử tử là vì người ta ghét đức tin của anh chứ không phải vì một tội nào khác mà anh đã phạm. Mọi người đều biết Anrê là một Kitô hữu tốt lành, nhiệt thành cho vinh danh Chúa. Anh giữ luật và thực thi mọi nhân đức. Vâng, anh thực sự là một vị tử đạo. Mọi người chứng kiến cái chết của anh, tại Việt Nam và tại Macao, đều biết rõ điều ấy. »

Và có lẻ không gì quí giá hơn chính bút tích của cha A. De Rhodes, người có mặt bên cạnh Anrê Phú Yên khi Ngài bị giết chết :

“Thầy bước đi giữa toán lính, người thì mang giáo, người khác mang đao; và trên đường đi, Thầy Anrê phúc lộc lên tiếng dạy dỗ họ và chỉ cho họ con đường về Quê Trời. Tới nơi xử hồng phúc, Thầy Anrê tốt lành quì ngay gối xuống ; Thầy chào từ giã các tín hữu, đồng thời khuyên bảo họ  hãy trung thành với Thiên Chúa và tín thác trong niềm tin, “để bảo toàn tình bạn với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và cho tới muôn đời”; đó cũng là những lời Thầy lập đi lập lại nhiều lần.” (Bản tường trình của Cha Đăc Lộ).

Cho dù hôm nay kỷ niệm ngày chết mà ngôn ngữ truyền thống gọi là “ngày sinh nhật trên tời”(26.7.1644), thì với Á Thánh Anrê Phú Yên, đó là là ngày vui, ngày chiến thắng, ngày vinh quang. Chính cái chất “vui tươi” được thể hiện bằng cuộc sống và nhất là qua cuộc tử đạo anh hùng, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bao thế hệ kitô hữu hôm nay lên đường theo dấu cũ như cảm nhận của cha Cosma Hoàng Văn Đạt :

“Tôi nhớ đến anh, một người trẻ vui khi bị bắt, vui khi bị hành hình. Anh không phải là một triết gia lạnh lùng trước sự sống và cái chết. Anh có một niềm hy vọng. Khi theo đạo, anh bước theo Đức Giêsu. Khi nhập Hội Thầy Giảng, anh muốn trở thành cộng sự viên của Chúa. Khi tử đạo, anh hân hoan thấy mình nên giống Chúa trên thánh giá. Đức Kitô đã phục sinh : đó là hy vọng duy nhất của anh. Anh vui vì tìm được niềm hy vọng. Anh vui hơn vì dấn thân với niềm hy vọng. Anh vui nhất khi đạt được niềm hy vọng. Anh trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Những lời cuối cùng từ miệng anh, từ lòng anh, là Chúa Giêsu. Tôi hiểu hết. Đó là trái tim của anh.

Nhìn mọi sự nhạt nhòa đi, tôi thấy anh nổi bật, ít là trong lòng tôi, giữa những người trẻ đã bước theo Đức Giêsu đến cùng : Tôma Thiện, Anrê Trông, Giuse Tuân... Và cả những Luy Gonzaga, những Têrêsa Hài Đồng nữa.”. (LM. Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ)

            Trên mọi nẻo đường phục vụ hôm nay, cần thiêt biết bao những niềm vui, những nụ cười như của Á Thánh Anrê Phú Yên để xoa dịu đi bao nổi nhọc nhằn, để xóa tan đi bao nhiêu sàu oán, để đẩy lùi đi bao nhiêu ghen ghét giận hờn…Niềm vui của Đức Cố Giáo hoàng G.P., của mẹ thánh Têrêxa Calcutta, của chị Chiara Lubic... phải chăng cũng “sắp hàng” trong con đường tình yêu của Anrê Phú Yên như thế !

            Sau hết, trong ngày mừng Sinh Nhật trên trời lần thứ 364 năm của Vị Á Thánh và cũng là ngày khánh thành đền thánh mang tên Ngài, điều còn lại nơi mỗi người chúng ta phải chăng là lời dốc quyết mà cha Phêrô Võ Tá Khánh đã gở gắm trong đoạn kết của khúc “Trường ca Anrê Phú Yên” :

Đường ta đi phấn khởi

Mỏ lối bởi tiền nhân

Nén hương lòng tri ân

Tấm bia lòng ghi khắc...

Xin thành tâm quyết chí

Noi gương người khiêm nhu

Yêu mến Chúa Giêsu

Đến hiến dâng đời sống

            Và nhất là ghi khắc trong tim và nỗ lực thực hành chính di chúc được viết bằng máu tử đạo của Á Thánh Anrê Phú Yên, những lời sau cùng và cũng là những lời được cha Đắc Lộ ghi trực tiếp bằng chính chữ quốc ngữ, cũng là câu văn quốc ngữ cổ xưa nhất còn lưu lại trên thế giới : “giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.”.

LM. Jos. Trương Đình Hiền

Mục lục

HAI CÂU CHUYỆN TỪ ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI

 

Trong tuần lễ đại hội Giới Trẻ tại Sydney, tôi đã tham dự các sinh hoạt chung như Thánh lễ, chào đón Đức Giáo Hoàng, Đi đàng Thánh giá, đêm canh thức và lễ bế mạc. Tôi chứng kiến nhiều cuộc tập họp đông đảo bạn trẻ chưa từng thấy.

Chiều thứ Ba 15/7, khoảng 140 ngàn người tập họp tại Barangaroo dự lễ khai mạc Đại Hội Giới Trẻ  Thế Giới do Đức Hồng Y George Pell chủ lễ. Chiều thứ Năm 17/7, gần nửa triệu người tập trung tại sáu địa điểm trong thành phố Sydney để theo dõi màn trình diễn những giờ cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Suốt trong ba tiếng đồng hồ, Sydney đã biến dạng thành các phố xá Giêrusalem xưa trong cuộc diễn lại hết sức vĩ đại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, một biến cố có tính đánh mốc các cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới.Bữa Tiệc Ly của Chúa và các Môn đệ được diễn lại tại các bậc thềm Nhà Thờ Chính Tòa St Mary, Chúa Giêsu bị lên án tử hình tại Viện Trưng Bày Nghệ Thuật tiểu bang New South Wales, bị đánh và phỉ nhổ tại Nhà Hát Con Sò, đi thuyền dưới Cầu Hải Cảng Sydney để vào Vịnh Cockle và chịu đóng đinh tại Barangaroo. Bến cảng Barangaroo của Sydney trở thành những chặng đàng cuối cùng của Ngắm Đàng Thánh Giá. Ngàn ngàn người tuổi trẻ mặc cho trời lạnh giá băng cúi đầu lần hạt tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Nơi đây,Người bị quân dữ đóng đinh trên cây thánh giá. Người trối lại Mẹ cho người Môn đệ thương yêu. Cũng chính nơi này, Chúa chết đau thương, tủi nhục trên cây thánh giá. Tuổi trẻ chật kín bến cảng Barangaroo lặng lẽ tưởng niệm cuộc thương khó. Tuổi trẻ bập bẹ đôi môi đọc lời kinh Lạy Cha, lời kinh Kính Mừng. Tuổi trẻ long lanh nước mắt khóc thương Chúa tử nạn. Cả một khu đất rộng lớn Barangaroo thênh thang yên lặng hỏi nhau: “Bạn đang đứng ở đâu khi người ta đóng đinh Chúa tôi vào cây thánh giá?”

Tối thứ Bảy 19/7, hơn 200 ngàn bạn trẻ thế giới ngủ qua đêm tại Randwick. Trời giá rét, sương đêm ướt đẫm, trường đua ngựa chật kín chỗ. Sau cùng, khoảng 400 ngàn người đã dự Thánh Lễ bế mạc do Đức Giáo Hoàng đồng tế với 26 Hồng y, 450 Giám mục và 4000 linh mục vào sáng Chúa nhật 20/7/08.

 

Trong vô vàn sự kiện và câu chuyện của những ngày Đại hội, tôi chú ý đến hai câu chuyện cảm động.

 

Em bé Việt nam được Đức Giáo Hoàng ôm hôn

 

Trước lễ bế mạc, Đức Giáo Hoàng đã dùng xe đi vòng quanh trường đua Randwick để chào đón tín hữu. Không hẹn trước, xe Đức Giáo Hoàng đã dừng lại ba lần để ôm hôn ba em bé. Một trong ba em này tà Tumi Lê. Em Tumi Lê chỉ sinh ra được chín tháng và là con của gia đình người Việt. Gia đình em rất mộ đạo và đang cư ngụ tại Cabramatta, phía Tây Nam thành phố Sydney. Trong thời gian Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, gia đình này mở cửa đón nhận chín tín hữu hành hương cư ngụ. Theo lời kể của bà Bích Ly Lê, mẹ của em Tumi Lê: em bé được Đức Giáo Hoàng ôm hôn chính là hậu duệ của một vị thánh tử đạo Việt Nam. Thánh Giuse Lưu quê ở Vĩnh Long đã được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong thánh vào năm 1988.

 

Đại hội diễn ra êm xuôi.

 

Trong Thánh Lễ Bế Mạc ĐHGTTG 2008, có 24 bạn trẻ được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI ban phép thêm sức. Trong đó có một bạn trẻ Việt Nam ở Sydney là Long Nguyễn.

 

Sau thánh lễ, tôi tìm gặp Long để chúc mừng. Giữa biển người, gặp các linh mục Việt nam, Long mừng lắm, tay bắt mặt mừng. Long kể về hành trình tìm kiếm đức tin của anh.

 

Tôi được giới thiệu vào đức tin Công giáo do người bạn gái và các bạn hữu trong liên đoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam. Gia đình tôi không theo một tôn giáo nào nhưng cá nhân tôi thì luôn luôn tin tưởng vào một Đấng Cao Cả nào đó lớn hơn nhiều.

 

Nhờ đức tin tôi mới hiểu được rằng điều tôi tìm kiếm suốt đời là Chúa Giêsu Kitô. Từ đầu năm nay tôi đã tham dự Thánh Lễ và học giáo lý thường xuyên ở Nhà thờ Thánh Felix, Bankstown với cha Dominic.

Tôi là một thành viên tích cực của Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam gần 2 năm. Nhờ đức tin tôi đã tìm được niềm hy vọng mới mẻ và đời tôi cũng đã mang một ý nghĩa mới.

 

Qua cuộc hành trình tìm kiếm đức tin, đời tôi cũng được chúc phúc rất nhiều. Tôi rất may mắn được hướng dẫn bởi những người thầy tận tuỵ dạy dỗ giáo lý trong suốt cuộc hành trình, và tôi rất là biết ơn những sự nâng đỡ mà tôi đã nhận được từ những bạn bè Công Giáo của tôi.Sau nhiều trăn trở tìm tòi và chắc chắn là với nhiều hồng ân soi sáng của Chúa Thánh Thần, tôi đã quyết định xin nhận bí tích Rửa Tội gia nhập vào gia đình Công Giáo, một vinh dự không thể nào chờ đợi lâu hơn. Thật là một cuộc dằn vặt cho cá nhân tôi khi muốn gia đình hiểu cho những lý do mà tôi đã theo đạo. Tôi hy vọng là tôi có thể đem Chúa Kitô đến cho những kẻ khác cũng đang ở trong trường hợp giống như tôi vậy.

Chia tay Long, chúng tôi mừng với anh đã lãnh nhận ấn tín ơn thiêng của Chúa Thánh Thần trong Thánh Lễ đặc biệt, tôi cầu chúc Anh sống đức tin trong niềm vui và hạnh phúc.

 

Trong bài giảng lễ Thánh bế mạc, Đức Giáo Hoàng nói đến nghịch lý của thời đại hôm nay: song song với sự thịnh vượng về vật chất, một sự trống vắng về tâm linh đang ngày càng bành trướng, một sự trống rỗng của nội tâm, một nỗi lo sợ vô căn, một cảm giác tuyệt vọng trong thâm sâu. Có biết bao người trong thời hiện đại đã xây nên những thùng chứa nước trống rỗng và hư hại (Gr 2:13) trong một cuộc tuyệt vọng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa tối hậu. Đó là một hồng ân cao cả của Phúc Âm Chúa Kitô. Từ đó, Đức Thánh Cha đặt niềm tin yêu vào giới trẻ: Giáo Hội cần đức tin, lý tưởng và lòng quảng đại của các con, để Giáo Hội luôn luôn được trẻ trung trong Thánh Thần (Lumen Gentium, 4). Giáo Hội đặc biệt cần đến tài năng của những người trẻ tuổi, tất cả những người trẻ tuổi. Giáo Hội cần phải lớn mạnh trong quyền năng Chúa Thánh Thần Đấng đang ban niềm vui cho tuổi trẻ của các con và linh hướng các con phụng sự Thiên Chúa trong niềm vui. Hãy mở rộng tâm hồn cho quyền năng đó! Cha khẩn thiết gởi lời yêu cầu đó đến các con, đặc biệt là những người mà Thiên Chúa đang gọi vào đời sống linh mục và thánh hiến. Đừng sợ hãi để thưa “xin vâng” với Đức Giêsu, để tìm nguồn vui và thực hành Thánh Ý Ngài, để dâng hiến hoàn toàn cho việc tìm kiếm sự thánh thiện, và tận dụng hết mọi khả năng để phục vụ tha nhân!

 

Tôi cầu nguyện cho Long và nhiều bạn trẻ sống lời mời gọi của Đấng kế vị Thánh Phêrô.

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

TIẾT KIỆM

Từ lâu, tôi có một ít tâm tư về một khía cạnh đời sống tu trì nói riêng và đời sống Giáo Hội Việt Nam ta nói chung mà tôi muốn chia sẻ nhưng rất ái ngại. Nay đọc được loạt bài trong mục: Tiết kiệm, đừng nói suông! của báo Tuổi Trẻ, tôi mừng như vớ được của--một cơ hội tuyệt vời để bày tỏ tâm tình mình một cách “tự nhiên”… Ít ra đó là cảm nhận riêng của tôi.

1. Từ một nhu cầu của đời sống kinh tế…

Đời sống kinh tế ở nước ta, cũng như nói chung trên thế giới đang gặp khó khăn. Đồng tiền lạm phát, giá cả tăng liên tục, đà phát triển chậm lại … Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp tiết kiệm. Chắc hẳn vì thấy “người ta” cứ nói hoài nói mãi (nghĩa là hô hào bằng miệng!) phải thế này, phải thế kia mà chả thấy ai, kể cả những người hô hào (tức là bộ máy chính quyền) chịu đi vào thực tế và bắt đầu tự mình tiết kiệm, nên mới đây báo Tuổi Trẻ đã mở ra trên trang “Bạn đọc và Tuổi trẻ”, một mục mới như đã nói trên để thúc đẩy người có chức quyền và mời gọi nhân dân vào cuộc ngay.  Mục này được nhiều người hưởng ứng góp ý, kể cả người nước ngoài. Tuyệt đại đa số ý kiến đều nêu những chuyện rất ư bình thường của cuộc sống, gợi ra những hình thức tiết kiệm rất đơn giản và dễ thực hiện.  Mời độc giả đọc lại với tôi vài hiến kế và nhận định lấy từ diễn đàn Tuổi Trẻ.

- “Tôi từng phục vụ ở một quán phở có nhiều khách nước ngoài đến ăn. Nếu so sánh cách ăn của người nước ngoài với nhiều người Việt Nam có vẻ “sang trọng”, sẽ thấy ý thức tiết kiệm của dân ta còn quá kém. Đa số khách nước ngoài đều ăn hết cả bát phở chứ ít khi bỏ thừa như người Việt [… ]. Cách người nước ngoài ăn rau sống cũng khác xa người Việt. Họ nhặt từng cọng rau, ngắt hết lá lành và những gì ăn được cho vào bát phở. Phần cọng rau, lá sâu họ để riêng và cho vào sọt rác. Họ ăn rau sống khá nhiều, nhưng ăn phần nào, dứt điểm phần đó nên rổ rau lúc nào cũng sạch sẽ, có thể dùng cho người khác ăn tiếp. Ngược lại, khách người Việt thường chỉ ngắt phần ngọn hoặc lá ngon nhất trong rổ rau. Rổ rau sau khi bị khách Việt tuyển chọn chỉ còn cọng rau, lá hỏng trộn lẫn với lá lành trông rất hỗn tạp [và chủ quán phải bỏ đi]”.

- “Hôm trước bà xã tôi mua ở siêu thị một cái ly khá thú vị. Đó chỉ là một chiếc ly thuỷ tinh, trên thân có những vạch chia theo đơn vị mi-li-lít dùng để đo lường khi làm bánh, pha chế đồ uống như mọi chiếc ly khác. Điều khiến nó trở nên đặc biệt là dòng chữa được ghi ngay bên cạnh dấu $: Hãy uống hết … Đừng lãng phí tiền (Drink it all up … Don’t waste money). Thông điệp giản dị đó thật sự là một cách kêu gọi tiết kiệm khá hiệu quả để rồi mỗi khi cầm chiếc ly này uống nước, tôi lại tự thấy cần phải uống hết để không lãng phí”.

- “Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước và của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích, gìn giữ của công. Không khó hiểu khi người nông dân một nắng hai sương gian khó làm ra hạt thóc nên họ tiết kiệm từng hạt “ngọc”, từng đồng tiền có được từ mồ hôi và nước mắt của  chính họ…”

- “Kinh tế gia Jonathan Pincus, trong một chuyến du hành và diễn thuyết ở TP.HCM khi cuộc khủng hoảng [kinh tế] bắt đầu, nhận xét nhiều người lầm tưởng rằng nền kinh tế VN đang rất sung túc nên chi tiêu vung vãi. Trong nhiều bài viết trước đây về vấn đề nợ nước ngoài và tình hình sử dụng vốn ODA, tôi đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta đang là con nợ nên hãy ngừng sống như thể mình đang là chủ nợ […]. Tiết kiệm bắt đầu từ cái đầu, khối óc để chỉ đạo lối sống.”

- “Ở Đà Nẵng, vào những ngày nắng nóng này, mọi người đều đổ xô ra biển và khi về ai cũng ghé vào bãi tắm nước ngọt để tắm lại. Nước từ những vòi hoa sen chảy hết sức mạnh, không phải một vòi mà hàng chục vòi như thế được mở hết công sức. Nước ngọt chảy thành sông. Vào lúc người đông đúc, số lượng vòi hoa sen không đủ cho số lượng nười tắm thì vòi chảy liên tục là điều có thể hiểu được. Thế nhưng vào sáng sớm hay chiều muộn, khi mọi người đã rời bãi biển gần hết, số lượng người tắm nước ngọt giảm mà các vòi hoa sen ấy vẫn mở hết ga. Có người tắm xong cứ để vậy đi thay quần áo, không làm một động tác hết sức nhỏ là với tay tắt nước. Nước cứ thế chảy hết ra cát rất lãng phí…

-“Cưới xong cày trả nợ! Dù vẫn biết cưới xong phải “cày” trả nợ nhưng nhiều người vẫn thích làm đám cưới rình rang chỉ vì ‘đời có một lần’. Tôi đã dự khá nhiều đám cưới từ nhà hàng sang trọng đến các làng quê nghèo, thấy nhiều gia đình không đủ tiền cưới vợ cho con phải vay mượn để cưới. Sau ngày cưới, nhiều cặp vợ chồng khăn gói vào Sài Gòn, Bình Dương làm thuê cả năm chưa hết nợ…”

- “Các nước đang tìm cách thoát ra kiểu sống chuộng hình thức, tìm lối sống giản dị, thì VN chúng ta mới bắt đầu … CHUI vô, không biết khi nào ra! Ngày nay giới trẻ đang bị ‘nô lệ’  cho 4 chữ M: Money (tiền bạc), Mobile (điện thoại), McDonald (thức ăn nhanh), Mercedes (xe hơi hàng hiệu). Nếu VN thức tỉnh sớm, khỏi đi vòng cả trăm năm thì đỡ lắm”  (Thạc sĩ Phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh).

2. … Đến những đòi hỏi của tinh thần nghèo khó Phúc Âm

Có phải vì méo mó nghề nghiệp không mà khi đọc những ý kiến và nhận định như trên, đôi lần tôi có cảm giác như đang nghe những lời huấn đức của các bề trên về nghèo khó trong đời sống tu hành? Nếu có như thế thì cũng chẳng sao. Vì ngay một số người “ngoài đời” tham gia góp ý trên trang báo cũng cho rằng tiết kiệm là “một đức tính”, “một thành tố của lối sống”, rằng “truyền thống người Việt Nam là tiết kiệm” (nhưng đã bị lối sống “hiện đại” xoá dần), và một nếp sống giản dị là một điều đáng ước ao trong nền văn minh hưởng thụ vật chất ngày nay. Mà chỉ nguyên mấy đầu đề thôi cũng đã bắt tôi (chúng ta) phải suy nghĩ rồi: Nghèo mà xài sang; Hãy từ những chuyện nhỏ; Ăn miếng ngon đừng quên đồng bào còn đói khổ; Hãy tắt máy tính khi rời cơ quan; Người Việt Nam “hơi vung tay quá trán” …

Hôm nọ tôi đem những ý kiến của trang báo Tuổi Trẻ nói trên ra kể với anh em tu viện trong giờ ăn sáng và thấy anh em chuyển qua đời sống tu trì và Giáo Hội cách tự nhiên như thể đôi bên đời và đạo có không ít những tương đồng (nghĩa là những “cám dỗ” và “yếu đưối” như nhau). Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu …) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.

Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.

Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống –dòng tu, giáo xứ, địa phận- thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ  nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sè rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp.

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

ĐÔI MẮT

 

 “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” người ta thường nói như thế để ca ngợi đôi mắt. Tôi vốn sở hữu một đôi mắt đen khá to hơi sâu, thêm cặp chân mày rậm và đôi lông mi dài hơi cong. Đủ chuẩn để được gọi là đôi mắt đẹp. Tôi vẫn thường được nghe khen về đôi mắt ấy, thậm chí còn bảo đó là đôi mắt của con gái (vì tôi là một nam nhi chính cống). Và bản thân tôi cũng thầm tự hào về “đôi mắt đẹp” ấy cho đến ngày tôi gặp anh, trong giờ cầu nguyện Lòng Chúa Thương Xót mỗi chiều thứ năm ở nhà thờ Chí Hoà. Anh tên là Phú, một thanh niên mù ở Trung Tâm Bừng Sáng lên làm chứng cho mọi người về Lòng Thương Xót Chúa.

 

Thoán nhìn, anh cũng bình thường như mọi người, cặp kính đen trên khuôn mặt khá đẹp trai, nhưng khi anh gỡ kính ra, mọi người mới biết anh…không có đôi mắt. Trên khuôn mặt ấy, chỗ của đôi mắt chỉ là mảng da liền không có con ngươi!

 

Với giọng trầm buồn, anh kể về cuộc đời mình. Ngay khi lọt lòng mẹ, anh đã không nhìn thấy ánh sáng. Cha anh đến bệnh viện thăm con lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng, vì ông đã nhẫn tâm bỏ rơi mẹ con anh từ cái nhìn đầu tiên ấy. Người mẹ cố gắng cứu mang anh cho đến năm 4 tuổi rồi cũng bỏ rơi anh đi với một người đàn ông khác. Từ đó anh mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng may còn có ông bà ngoại chăm sóc đứa cháu tật nguyền côi cút. Cuộc sống của anh là một chuỗi ngày dài đau thương buồn tủi vì mặc cảm và cô đơn. Anh chưa từng biết đến ánh sáng, chưa từng được nhìn ngắm những kỳ công tuyệt vời Chúa đã tạo dựng nên. Anh thiếu thốn mọi thứ, mọi sự trên đời nhưng anh hơn tôi và những bạn trẻ khoẻ mạnh khác vì anh có được một sức mạnh kỳ diệu của niềm tin và tình yêu. Anh đã phấn đấu để trở thành một con người bình thường như bao người khác. Anh lại là một người Kitô hữu chính danh, một người có thể giúp ích cho người khác chứ không cam chịu phận tăm tối, sống kiếp tầm gởi, hoặc ngồi than thân trách phận. Hiện anh đang là sinh viên năm thứ II Đại Học Xã Hội Nhân Văn. Ngoài giờ học ở trường, anh còn dạy kèm vi tính miễn phí cho các bạn khuyết tật, để những bạn đó có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua mạng tin học. Chưa hết đâu, anh còn có thể đánh đàn guitare, hát và chơi trống nữa. Đôi mắt mù loà đã không cản trở anh tiến tới phía trước với đầy niềm tự tin. Bóng tối không ngăn cản được bước chân anh. Vì ánh sáng của niềm tin luôn rực cháy trong tâm hồn anh. Ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh chói sáng trong tâm trí anh. Tôi và cả cộng đoàn chiều hôm đó ngất ngây khi thấy anh ôm cây đàn guitare cất tiếng hát ca ngợi lòng thương xót của Chúa : “Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của Ngài. Chúa đi vào hồn con êm ái tuyệt vời, mấy cung đàn tơ, tấu lên trìu mến. Khúc ca cuộc đời con thơm ngát hương trời.” Anh tật nguyền thế mà lại can đảm tuyên xưng rằng : “Hồng ân Chúa, tràn trề thánh ân. Tay con nhỏ bé đón sao cho vừa…” Còn tôi thì sao nhỉ ? Có cảm nghiệm hồng ân Chúa trong đời mình và can đảm làm chứng cho tình yêu Chúa không? Khi cha linh hướng hỏi anh có còn mặc cảm hay phiền trách Chúa vì đã không cho anh có đôi mắt như những người bình thường khác không? Anh cười nhẹ đáp một câu mà ai nghe cũng giật mình: “Thưa cha, lúc đầu thì có, thậm chí đến mức tuyệt vọng không muốn sống nữa. Thế nhưng từ ngày con nhận biết Chúa và có niềm tin thì không còn ý nghĩ đó nữa. Con tạ ơn Chúa đã tạo dựng nên con như thế này. Vì nếu sáng mắt biết đâu con lại có dịp để phạm tội làm mất lòng Chúa nhiều hơn?”

 

Nhìn lại mình, nghĩ đến đôi mắt đẹp của tôi, chợt giật mình. Tôi đã làm gì với đôi mắt Chúa ban cho? Tôi đã sử dụng chúng như thế nào? Tôi đã được tận hưởng những vẻ đẹp của ánh sáng, của thiên nhiên vũ trụ, của con người, của vạn vật. Tôi có nhận ra đó là ân huệ Chúa dành cho tôi không? Hay tôi cho đó là điều tự nhiên? Đã bao lần tôi đã dùng đôi mắt đẹp này để lướt vào những trang Web đen, để nhìn những điều tệ hại, tội lỗi, để đọc những điều có thể làm băng hoại tâm hồn. Đã bao lần tôi thấy những điều sai trái nhưng tôi ngoảnh mặt làm ngơ. Đã bao lần tôi chứng kiến những điều thương tâm nhưng tôi che mặt quay gót. Đã bao lần tôi chỉ trau chuốt vẻ bề ngoài mà chưa một lần ngó vào chiều sâu. Đã bao lần tôi chỉ đánh giá qua hình thức mà chưa hề ngắm kỹ đến nội dung.

 

Tham dự buổi cầu nguyện và làm chứng của anh Phú, là dịp để tôi nhìn lại chính bản thân mình để suy nghĩ sâu hơn về những gì tôi đã được hưởng, về những gì tôi đã trải qua, về những gì tôi đã, đang và sẽ làm.

 

Cảm tạ Chúa đã cho tôi có dịp tham dự những giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ ở nhà thờ Chí Hoà. Chính nhờ “ĐIỂM HẸN GIÊSU” này mà những người trẻ như tôi nhận thức được nhiều điều kỳ diệu. Chúa đã dùng “đôi mắt tâm hồn” của anh Phú, để mở “đôi mắt xác thịt” của tôi. Chúa đã dùng ánh sáng mầu nhiệm niềm tin của anh để soi sáng ánh mắt đức tin mù tối của tôi.

 

Những nhân chứng của Lòng Thương Xót Chúa là ánh sáng Chúa gửi đến cho mỗi người trẻ chúng tôi, để mãi là những lời nhắc nhở chúng tôi biết phấn đấu trở thành những Kitô hữu chính danh. Tôi ao ước mình có thể trở thành một chứng nhân cho Lòng Thương Xót của Chúa ngay trong cuộc sống này, ngay trong môi trường tôi đang sống, đang sinh hoạt, để nhiều người nhận biết được tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Lời ca của anh còn âm vang mãi trong tôi: “Hồng ân Chúa tràn trề tháng năm, tay con nhỏ bé đón sao cho vừa. Hồng ân Chúa vô biên vô tận, tim con nhỏ bé nhưng hãy còn vơi.”

 

Phượng Thái

Những ngày mưa tháng sáu 2008

Mục lục

 

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008

 

Bài 2:

CUỘC HOÁN CẢI CỦA THÁNH PHAO-LÔ

“Cuộc hoán cải của thánh Phaolô” đưa chúng ta trở lại biến cố Đamát, và giúp chúng ta hiểu ý nghỉa sâu sắc của biến cố này.

 

Lm. I-nha-xi-ô Hồ Thông

Biến cố trên đường Đá-mát, đã làm thay đổi tận căn cuộc đời của thánh nhân từ kẻ bách hại Giáo Hội dữ dội trở thành một nhà truyền giáo vĩ đại. Biến cố kỳ lạ nầy được thuật lại đến ba lần trong sách Tông Đồ Công Vụ (9,1-19; 22,3-21; 26,9-18) và rải rác trong các thư của chính thánh Phao-lô (1 Cr 9,1; 15,8-10; Pl 3,4-14; Gl 1,11-23).

Tại sao thánh Lu-ca tường thuật một biến cố đến ba lần trong cùng một tác phẩm? Để hiểu dụng ý của tác giả, chúng ta sẽ tìm hiểu từng bài tường thuật.

Khi so sánh đối chiếu cách trình bày biến cố trên đường Đa-mát được tường thuật trong sách Công Vụ và được kể lại trong các thư của thánh Phao-lô, chúng ta dể dàng nhận ra những tương đồng và những dị biệt. Những tương đồng và dị biệt nầy muốn nói lên điều gì?

 

I. Cách trình bày của thánh Lu-ca trong sách Công Vụ:

 

Trong sách Công Vụ, biến cố nầy được tường thuật đến ba lần: một chuyện kể (9,1-19), và hai lần khác theo hình thức diễn từ biện hộ của chính thánh Phao-lô: một trước đám đông Do thái (22,3-21) và một lần khác trước quan tổng trấn Rô-ma, Phét-tô, và vua Do thái Ác-rip-pa cùng triều thần của ông (26,9-18).


1. Bài trình thuật thứ nhất (9,1-19):


Bài trình thuật thứ nhất được đặt vào trong bối cảnh Giáo Hội bị bách hại: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông đồ ra, mọi người đều tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.” (8,1). Một Giáo Hội đang bị bách hại dữ dội lại trở thành một Giáo Hội truyền giáo: đi đến đâu, họ đều loan báo Tin Mừng, nhờ đó Giáo Hội phát triển vượt ra bên ngoài biên giới Giê-ru-sa-lem (8,4).


Trong bối cảnh nầy, ngay từ đầu của bài trình thuật, thánh Phao-lô được giới thiệu như kẻ bách hại Giáo Hội chủ chốt (9,1-2), nhưng cuối bài trình thuật, kẻ bách hại Đạo lại trở thành một thành viên của Giáo Hội (9,18) và sau nầy trở thành một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội. Từ đâu mà xảy ra cuộc hoán cải kỳ lạ nầy? Lúc đó, tác giả lần đầu tiên biến cố Đa-mát.


Để mô tả biến cố phi thường trên đường Đa-mát, thánh Lu-ca sử dụng văn phong thần hiện Cựu Ước như cuộc thần hiện trên núi Si-nai trong đó Thiên Chúa ngự xuống trong đám lửa và trả lời trong tiếng sấm (Xh 20,16-18). Và để diễn tả uy quyền tối thượng của Thiên Chúa, Đấng đã ban mệnh lệnh và con người không thể nào cưỡng kháng lại được, thánh Lu-ca sử dụng cuộc đối thoại theo khuôn mẫu của những cuộc đối thoại thần hiện Cựu Ước như với A-bra-ham (St 22,1-2), với Gia-cóp (St 31,11-13; 46,2-3) và Mô-sê (Xh 3,2-10). Chung chung, cuộc đối thoại được cấu trúc thành ba phần: Thiên Chúa gọi đích danh con người, con người trả lời, Thiên Chúa kết thúc với một mệnh lệnh mà con người phải thi hành trong thái độ hoàn toàn vâng phục.


Mệnh lệnh đã được ban cho, tuy nhiên sứ điệp vẫn chưa được mặc khải: “Hãy vào trong thành, người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (9,6). Thánh nhân sống ẩn dật, chay tịnh và chờ đợi suốt ba ngày trong cảnh mù loà tăm tối.


Trong một thị kiến song song, nhân vật Kha-na-ni-a nhận được lệnh đi gặp thánh Phao-lô. Chính nhờ ông mà đôi mắt mù loà của kẻ bách hại lại được mở ra để thấy và hiểu Mặc Khải; và qua ông mà Phao-lô đã kinh qua từ quan điểm của kẻ bách hại đến vị thế của người môn đệ Đức Kitô qua phép rửa.


Trong cuộc đối thoại với Đức Giê-su về ông Phao-lô, ông Kha-na-ni-a đưa ra nhiều bác bỏ. Ông đã nghe nói về Phao-lô. Việc ông ngần ngại cho thấy Phao-lô đã là một kẻ bách đạo nguy hiểm biết bao đối với Giáo Hội và sự thay đổi kỳ lạ biết mấy được thực hiện ở nơi Phao-lô, kẻ bách hại khét tiếng nầy, khởi đi từ biến cố trên đường Đa-mát. Đức Kitô khẳng định: “Người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en” (9,15). Trong hoàn cảnh Giáo Hội đang bị bách hại, người Kitô hữu, khi bị điệu ra trước mặt những kẻ bắt bớ mình, phải tuyên xưng công khai niềm tin của mình vào Đức Kitô, vì thế lời nầy chưa thật sự là ơn gọi truyền giáo của thánh Phao-lô theo đúng nghĩa..


Như vậy, bài tường thuật thứ nhất đặt dấu nhấn trên biến cố Đa-mát như khởi điểm của một sự hoán cải triệt để, một ơn tái sinh tận căn của thánh Phao-lô, theo cách nói của Benjamin Ndiaye: “Cuộc xuất chinh về Đa-mát trở thành lộ trình về ánh sáng và hiểu biết Đức Kitô.” [1][1]

 

2. Bài trình thuật thứ hai (22,3-21):


Bài trình thuật thứ hai là một bài diễn từ của thánh Phao-lô ngỏ lời trước đám đông Do thái bị khích động chống đối dữ dội thánh nhân trong đền thờ. Nếu không nhờ một số binh lính Rô-ma can thiệp kịp thời thì thánh nhân suýt nữa mất mạng rồi (Cv 21,27-40). Chính trong bối cảnh như vậy mà tác giả kể lại biến cố trên đường Đa-mát lần thứ hai.


Thánh Phao-lô nhắc lại quá khứ của ngài: cũng như họ hôm nay, xưa kia, vì tận tâm tận lực trung thành phục vụ truyền thống tôn giáo của cha ông, ngài đã ra tay bắt bớ Giáo Hội. Khi viện dẫn chính quyền Do thái giáo làm chứng cho quá khứ của mình, thánh Phao-lô cũng ám chỉ đến hiện tại của ngài: một nhà giảng thuyết tận tâm tận lực trung thành phục vụ Đức Giê-su Kitô. Như thế, phải là một biến cố quan trọng lắm mới có thể làm thay đổi vận mệnh của một con người như thế.


Cách mô tả biến cố và cuộc đối thoại không khác lắm so với bài tường thuật thứ nhất, tuy nhiên mức độ mầu nhiệm được tăng cường thêm: “Bỗng nhiên có luồng sáng từ trời xuống bao phủ lấy ông” (9,3) trong khi: “Bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông” (22,13).


Trong cuộc đối thoại, mệnh lệnh được ban ra là một mệnh lệnh kép: “Hãy đứng dậy và hãy vào…” Công thức nầy gợi nhớ các bài tường thuật về ơn gọi ngôn sứ: trước uy quyền tối thượng của Thiên Chúa, không ngôn sứ nào có thể thoái thác sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng thi hành ngôn sứ.” (Am 3,8; x. Gr 20,7-9).


Nhân vật Kha-na-ni-a đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong bài tường thuật thứ nhất, tuy nhiên, lại được rút ngắn trong bài tường thuật thứ hai: không còn cuộc đối thoại của ông với Đức Kitô, thay vào đó là một bài diễn từ của ông với Phao-lô, một bài diễn từ về ơn gọi và sứ mạng của thánh Phao-lô (22,14-16).


Đặc biệt, bài tường thuật thứ hai được tăng cường thêm với một thị kiến khác ở trong đền thờ (22,17-21). Trong đó, không còn qua trung gian của nhân vật Kha-na-ni-a, nhưng chính Đức Kitô trực tiếp truyền lệnh cho Phao-lô “Hãy đi, Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại phương xa.” Mệnh lệnh nầy kết thúc thị kiến trong đền thờ cũng như toàn bộ bài diễn từ đem lại một hướng đi mới cho bài tường thuật thứ hai. Quả thật, mệnh lệnh cốt chứng minh rằng sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân của thánh Phao-lô xuất phát trực tiếp từ ý muốn Thiên Chúa.

 

3. Bài tường thuật thứ ba (26,9-18)


Bài tường thuật thứ ba là một bài diễn từ của thánh Phao-lô trước quan tổng trấn Rô-ma, Phét-tô và vua Do thái, Ác-rip-pa, cùng với triều thần khi thánh nhân bị điệu ra để biện hộ cho mình (25,13-27). Đối tượng mà bài diễn từ gởi đến là chính quyền dân sự Do thái và Rô-ma.


Cũng như bài tường thuật trước, bài tường thuật thứ ba cũng nêu lên quá khứ bách hại, nhưng dữ dội hơn: dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn và giận dữ quá mức đến nổi sang các thành nước ngoài mà bắt bớ họ (26,11).


Cũng cách thức mô tả biến cố trên đường Đa-mát như bài tường thuật trước, tuy nhiên, mức độ được tăng cường hơn: “Đang khi tôi đi đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, thì bổng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi.” (22,6) và: “Đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống quanh tôi và các bạn đồng hành.” (26,13).


Cách thức mô tả cuộc đối thoại vẫn không thay đổi, tuy nhiên được tô đậm hơn bởi một thành ngữ: “Đá lại mũi nhọn thì khốn cho người,” nghĩa là bất cứ đối kháng nào cũng vô ích và chỉ làm thiệt thân thôi.


Đặc biệt, nhân vật Kha-na-ni-a hoàn toàn biến mất, thay vào đó, chính Đức Giê-su hiện thân trao ban mệnh lệnh của Ngài cho Phao-lô. Mệnh lệnh nầy được khai triển thành một bài diễn từ ơn gọi và sứ mạng (26,16-18):


Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi để chọn người làm đầy tớ và là chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra và tỏ cho ngươi biết. Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do thái và dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được thánh hiến.”


Bài diễn từ nầy là một bức khảm được đính vào với những lời trích dẫn của các ngôn sứ.


1- “Hãy đứng thẳng lên” là một câu trích dẫn Ed 2,1: “Hỡi con người, hãy đứng thẳng lên, Ta sắp nói với ngươi đây.” Hơn nữa câu trích dẫn nầy đi liền theo sau bài tường thuật về ơn gọi thi hành ngôn sứ của Ê-dê-ki-en.


2- “Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi..” (26,17) quy chiếu đến Gr 1,8: “Đừng sợ vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” trong bối cảnh Thiên Chúa gọi Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ muôn dân.


3- “Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bỏ bóng tối mà trở về cùng ánh sáng” (Cv 26,18) phải được quy chiếu đến I-sai-a 42,6t: Thiên Chúa chọn người tôi trung của Ngài “làm ánh sáng chiếu soi muôn dân, để mở mắt cho những ai mù loà.”


Trích dẫn ơn gọi của ba vị ngôn sứ và trong bối cảnh sứ mạng cho muôn dân, chắc chắn thánh Lu-ca có dụng ý: làm nổi bật ơn gọi thi hành sứ mạng cho muôn dân của thánh Phao-lô.


Vì thế, không gì phải ngạc nhiên khi trong bài tường thuật thứ ba không còn bất cứ điều gì liên quan đến nhân vật Kha-na-ni-a, nhưng nhằm khuếch trương sứ điệp của Đức Kitô, chính Ngài trực tiếp gọi thánh nhân và sai thánh nhân đi thi hành sứ mạng cho muôn dân.

 

4. Ý nghĩa thần học của biến cố Đa-mát trong sách Tông Đồ Công Vụ:


Sách Công Vụ tường thuật ba lần cùng một biến cố, nhưng do hoàn cảnh khác nhau, và đối tượng khác nhau, những thích ứng cần thiết và những thêm hay bớt, tô đậm hay làm mờ đi đem lại một hướng đi mới, cấu tạo nên “cái riêng” của mỗi bài tường thuật.


Tuy nhiên, những khác biệt nầy được nối kết mật thiết với nhau để tạo thành một hướng đi, một bước tiến: mức độ tăng dần hay giảm dần để đạt đến cao điểm của bài tường thuật thứ ba. Rõ ràng đây là dụng ý của tác giả. Vậy đâu là dụng ý của tác giả sách Tông Đồ Công Vụ? Câu chuyện của ông Co-nê-li-ô cung cấp cho chúng ta một chỉ dẫn. Tương tự như câu chuyện Đa-mát, câu chuyện ông Co-nê-li-ô được kể ở 10,1 - 11,17 chứng tỏ rằng chính Thiên Chúa muốn loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Thánh Lu-ca đã nhấn mạnh ý nghĩa khác thường của câu chuyện nầy bởi bài diễn từ của thánh Phê-rô trong nhà của ông Co-nê-li-ô (10,34-43), và hơn thế nữa, bởi bài diễn từ của thánh nhân ở Giê-ru-sa-lem (11,5-17).


Trong cả hai trường hợp: câu chuyện Đa-mát và câu chuyện ông Co-nê-li-ô, thánh Lu-ca nhấn mạnh tầm quan trọng của biến cố đối với sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân bằng kỹ thuật văn chương: lập đi lập lại. Qua cuộc trở lại của ông Co-nê-li-ô, ngoại giáo, Thiên Chúa đích thân khai mạc sứ mạng cho muôn dân bởi thánh Phê-rô, vị lãnh đạo Giáo Hội. Cũng vậy, trong cuộc thần hiện trên đường Đa-mát, Đức Kitô đã hoán cải thánh Phao-lô và kêu gọi thánh nhân thực hiện sứ sứ vụ cho muôn dân.


Việc lập đi lập lại tình tiết Đa-mát, không chỉ nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của biến cố đối với câu chuyện tiếp theo sau, nhưng cũng đề cập những vấn đề thiết thân với thánh ký vào hoàn cảnh Giáo Hội thời đó: Do đâu Giáo Hội có quyền theo đuổi công việc truyền giáo cho muôn dân? Việc bỏ rơi phép cắt bì không là dấu chỉ của sự đoạn tuyệt với niềm tin Do thái giáo sao? Cuối cùng, phải nghĩ gì về sự nối tiếp của lịch sử cứu độ nếu giữa Do thái giáo và Giáo Hội tiên khởi mở ra một sự chia cách quá thẳm sâu như thế?


Chúng ta gặp thấy câu trả lời của thánh Lu-ca trong bài tường thuật thứ hai và thứ ba. Khi tô đậm tính chính thống Do thái của thánh Phao-lô: tận tâm tận lực trung thành bảo vệ truyền thống tôn giáo của cha ông đến mức bách hại Kitô giáo (Cv 22,3; 26,4t.), thánh Lu-ca muốn minh chứng rằng thánh Phao-lô có lẽ sẽ không bao giờ ra tay thực hiện công việc truyền giáo cho muôn dân, nếu không vì uy quyền bất khả kháng của Đức Kitô đòi buộc thánh nhân dấn thân vào con đường nầy. Vì thế, nếu Tin Mừng được chuyển đạt từ dân Do thái đến muôn dân, đó không là do một sự tính toán hay tham vọng của phàm nhân, nhưng chính vì thực hiện kế hoạch mà chính Thiên Chúa đã cưu mang từ lâu. Như vậy Giáo Hội tràn lan đến muôn dân, cấu tạo rồi một tầm mức vĩ đại không thể chối cải được vào thời đại của thánh ký. Đây không là từ chối Cựu Ước, nhưng chính xác là hoàn thành lịch sử Cựu Ước. Dó đó, những tấn công kịch liệt của Do thái giáo chống Giáo Hội là không có cơ sở.

 

II. Sách Công Vụ Tông Đồ và những chứng liệu trong các thư thánh Phao-lô:


Khi so sánh đối chiếu “biến cố trên đường Đa-mát” được trình bày bởi thánh Lu-ca trong sách Công Vụ và được thuật lại bởi chính thánh Phao-lô, rải rác trong các thư của thánh nhân, chúng ta dễ dàng nhận ra nhiều tương đồng, nhưng cũng nhiều dị biệt.

 

1. Những tương đồng:


1.1- Trong nhiều bức thư của mình, thánh Phao-lô khẳng định: “Anh em đã hẳn nghe nói tôi đã hành xử thế nào trước kia trong đạo Do thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa.” (Gl 1,13; x. 1 Cr 15:9; Pl 3,6; Gl 1,22). Lời khẳng định nầy đồng nhất với cách trình bày của sách Công Vụ về quá khứ bách hại Giáo Hội của thánh nhân (Cv 9,1-2; 22,3-5; 26,9-11) và việc Đức Giê-su tự đồng hoá mình với Giáo Hội đang bị bách hại của Ngài (Cv 9,5; 22,7; 26,14).


1.2- Thánh Phao-lô khẳng định biến cố Đa-mát đánh dấu một khúc quanh, một khởi điểm của cuộc đổi đời toàn diện của ngài. Để thuật lại cuộc đột biến phi thường nầy, thánh Phao-lô dùng cặp tương phản: κερδαινω/ζημιοω (“được/mất”), và κερδος/ ζημια (“mối lợi/thiệt thòi”) như trong Pl 3,7-8: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Kitô, Chúa của tôi.”


Ở Pl 3,12: Thánh Phao-lô dùng động từ “καταλαμβανω” ở thể thụ động: “bị chiếm đoạt” và thể chủ động: “chiếm đoạt” để diễn tả khúc quanh đổi đời của ngài: “Tôi đang cố chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Giê-su Kitô chiếm đoạt.”


Ở Pl 3,13b-14, thánh nhân viết: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía truớc. Tôi chạy (“διωκω”) thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giê-su Kitô.”


Chặng đường đã qua” có thể được hiểu về quảng đời trước khi thánh nhân viết. Tuy nhiên, trước đây, thánh nhân đã nhiều lần dùng động từ “διωκω” theo nghĩa tiêu cực: “bách hại” để ám chỉ quá khứ bách hại Giáo Hội trước khi được gặp gỡ với Đức Kitô trên đường đi Đa-mát (Pl 3,6; x. 1 Cr 15,9; Gl 1,3, 13); bây giờ, ngài sử dụng cũng một động từ nầy, nhưng theo nghĩa tích cực: “đuổi theo” để nhấn mạnh việc ngài đoạn tuyệt cái quá khứ bách hại đã qua của mình và kiên quyết gắn bó trọn cuộc đời của ngài vào Đức Kitô: (Pl 3,13b-14).


1.3- “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng.” Đối với Thánh Phao-lô, việc loan báo Tin Mừng không đơn giản chỉ bổn phận hay nghĩa vụ phải hoàn thành, nhưng là mệnh lệnh bất khả kháng của Đấng Toàn năng như lời trần tình của ngôn sứ Giê-rê-mi-a “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng…Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.’ Nhưng lời Ngài như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao nén được.” (Gr 20,7,9). 

 

2. Những dị biệt:


2.1- Trong hầu hết các bức thư và theo nhiều cách khác nhau, thánh Phao-lô đã thường khẳng định: “Tôi đã thấy Đức Kitô” (x.1 Cr 9,1; Gl 1,1; 1,16). Trong khi, theo cách trình bày cuộc thần hiện Đa-mát trong sách Công Vụ, A. Loisy nhận xét xác đáng: “Vì thế, ánh sáng là tất cả những gì Phao-lô đã thấy. Chính lời của Đức Kitô, mà Phao-lô sẽ nghe, lời ấy sẽ mạc khải cho ông biết rằng Đức Giê-su ở trong ánh sáng nầy.” [2][2]
Không phải là không có chủ ý nếu chúng ta so sánh sự khác biệt giữa cách thức Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh, một sự hiện diện hữu hình và khả giác: đồng hành và đồng bàn với các môn đệ (Lc 24 và Cv 1), và cách thức Đức Kitô hiện ra với Phao-lô trên đường Đa-mát, một sự hiện diện vô hình và mầu nhiệm: tương tự như Mô-sê trước bụi gai cháy đỏ, ông thấy ngọn lửa và trong ngọn lửa ông nghe tiếng nói, nhưng không thấy Gia-vê hiện thân. Sự khác biệt nầy nói lên chủ đích thần học của thánh Lu-ca. Bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng thứ ba (Lc 24) và đầu sách Công Vụ (Cv 1), biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi điểm: hoàn tất cách thế hiện diện hữu hình và khả giác của Đức Giê-su ở giữa con người, và khởi điểm cách thế hiện diện vô hình và mầu nhiệm của Đấng vinh hiển; đồng thời cũng hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và khởi điểm sứ mạng của các Tông Đồ tiếp nối sự nghiệp của Thầy mình.


Khác với thánh Lu-ca, thánh Phao-lô ở 1 Cr 15,3-9 lại gộp chung tất cả những lần hiện ra: trước hết, với Nhóm Mười Hai; tiếp đó, với hơn năm trăm người một lượt; và sau hết, với thánh nhân.Chỉ một sự khác biệt duy nhất đó là thánh nhân thấy mình không xứng đáng được gọi là Tông Đồ, bởi vì ngài đã ngược đãi Giáo Hội.


2.2- Thánh Phao-lô không phủ nhận mối liên hệ của mình với truyền thống Giáo Hội tiên khởi mà ngài đã lãnh nhận (1 Cr 15,3t.), nhưng ngài xác quyết rằng Tin Mừng mà ngài rao giảng đã được đón nhận trực tiếp từ Đức Kitô: “Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng chính Đức Giê-su Kitô đã mặc khải.” (Gl 1,11)


Cách trình bày của sách Công Vụ, ít nhất, bài tường thuật thứ nhất và thứ hai cho thấy rằng thánh Phao-lô, sau cuộc thần hiện trên đường Đa-mát, cần phải có thời gian sống trong thinh lặng và chay tịnh. Trong thời gian nầy ông vẫn hoàn toàn trong bóng tối và phải đợi ông Kha-na-ni-a đến mở mắt cho mình thấy và hiểu. G. Klein giải thích: “Trong bài tường thuật của sách Công Vụ, cuộc hoán cải của Phao-lô không trùng hợp với ơn gọi của ngài. Ông Kha-na-ni-a, đại diện Giáo Hội, thật sự đóng một vai trò chủ chốt. Thánh Phao-lô nhận được sự hợp thức hoá của mình chỉ nhờ tháp nhập vào trong truyền thống Giáo Hội. Thánh nhân không thể viện dẫn ơn gọi và sứ mạng của mình như phát xuất từ sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa. [3][3]


2.3- Thánh Phao-lô nhất quyết hỏi cho bằng được tước vị Tông Đồ: “Tôi không phải là Tông Đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao?” (1 Cr 9,1). Thánh nhân quả quyết: “Tôi là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải do một người nào, nhưng bởi Đức Kitô và Thiên Chúa là Cha” (Gl 1,1). Từ đó, tước vị Tông Đồ trở thành danh thiếp của ngài trong hầu hết các thư, ví dụ như: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Giê-su Kitô; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa.” (Rm 1,1; 1 Cr 1,1; 2 Cr 1,1; Gl 1,1).


Theo viễn cảnh đặc thù của sách Công Vụ, thánh Lu-ca dành riêng tước vị Tông Đồ cho Nhóm Mười Hai, những môn đệ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, họ là những chứng nhân về những lần Đấng Phục Sinh hiện ra hữu hình và khả giác trong suốt bốn mươi ngày, và nhất là những người đã được Đức Giê-su đích thân tuyển chọn trước đây để tiếp tục công việc của Ngài. Việc chọn ông Mát-thi-a vào Nhóm Mười Hai được tường thuật trong Cv 1,21-26 cho thấy rất rõ điều nầy.


Theo quan điểm của thánh Luca, các Tông Đồ là những chứng nhân đích thật đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục giữa thời kỳ Đức Giê-su tại thế và thời kỳ Giáo Hội qua lời rao giảng và hành động của họ: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã cho sống lại, về điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm chứng.” (Cv 3,15; 5,32; 10,39, 41 và 13,31). Chức năng mà thánh Lu-ca dành riêng cho thánh Phao-lô thì khác: thánh Phao-lô là vị Sứ Đồ truyền giáo vĩ đại của muôn dân, ngài đảm bảo mối liên hệ giữa Giáo Hội tông truyền và Giáo Hội hiện nay mà Lu-ca đang sống. Khi Lu-ca nối kết chặc chẽ chức vụ Tông Đồ với những liên hệ mà các Tông đồ đã có với Đức Giê-su trần thế, thánh ký không thể nào đặt thánh Phao-lô vào hàng các Tông đồ được. Như G. Lohfink nhận xét: “Thánh Lu-ca không nghĩ rằng thánh Phao-lô là một Tông Đồ, nhưng ông trình bày tài tình tầm mức vĩ đại ơn gọi của thánh Phao-lô và mẫu gương của công việc truyền giáo của thánh nhân mà rốt cuộc thánh nhân đứng ngang tầm với các Tông Đồ. Chính về thánh Phao-lô mà Lu-ca viết: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” (Cv 13,47). Và điều nầy, thánh Lu-ca đã không thể nào nói như vậy về bất kỳ vị Tông Đồ nào. [4][4]

 

Kết luận:

 

Đã từ lâu, người ta đã nhận ra những dị biệt giữa cách trình bày của sách Công vụ và những chứng liệu của thánh Phao-lô trên cùng một biến cố Đa-mát. Tuy nhiên, trước đây, khoa phê bình truyền thống xem những bản tường thuật nầy như những thiên phóng sự về “người thật việc thật,” vì thế, những dị biệt giữa chúng chỉ là những yếu tố thêm vào, những chi tiết phụ, như nhận xét của A. Bisping: “Cốt yếu là ba bài tường thuật phù hợp với nhau; chúng chỉ khác biệt với nhau ở nơi những chi tiết phụ. Sự khác biệt nầy không làm giảm đi tính xác thực của chúng, nhưng trái lại tính chất lịch sử của ba bài tường thuật nầy được tăng cường thêm.”  [5][5] Theo Foakes-Jackson, “Thánh Lu-ca, người bạn đồng hành của thánh Phao-lô, đã phải thường nghe kể câu chuyện nầy. Vì thế, những bài tường thuật về những biến cố như thế có khuynh hướng thay đổi trong những chi tiết với sự lập lại. Hơn nữa, thánh Phao-lô đã chỉ có một ký ức lờ mờ đối với những chi tiết phụ đi kèm theo kinh nghiệm tinh thần kỳ lạ của ngài. [6][6]


Khi khoa phê bình nguồn xuất hiện, những dị biệt nầy mới được xem như những mấu chốt để nhận dạng ra những truyền thống khác nhau. Điều nầy xem ra phù hợp với phương pháp tiến hành của Lu-ca. Ngay ở đầu hai tác phẩm của mình: một về cuộc đời của Đức Giê-su và một về cuộc đời của Giáo Hội, ông đã nói rõ tiến trình thực hiện hai tác phẩm của mình: “Có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta…Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra…” Theo E. Hirsch, sự khác biệt lớn lao nhất là sự khác biệt giữa bài tường thuật thứ nhất và bài tường thuật thứ ba. Bài tường thuật thứ hai có lập trường trung dung. Tình tiết của nhân vật Kha-na-ni-a chứng tỏ rất rõ điều nầy: Kha-na-ni-a đóng vai trò rất quan trọng trong bài tường thuật thứ nhất, còn can dự nhưng kém hơn ở bài tường thuật thứ hai, cuối cùng, không còn được kể ra nữa ở bài tường thuật thứ ba. Bài tường thuật thứ ba rất gần với những khẳng định của thánh Phao-lô: thánh Phao-lô không kể ra nhân vật Kha-na-ni-a trong các thư của mình, trái lại còn khẳng định ngài đã đón nhận ơn gọi làm Tông Đồ cho muôn dân không qua một trung gian nào, nhưng chính từ Đức Kitô đích thân. Trong khi đó bài tường thuật thứ nhất thuộc về truyền thống của Cộng Đoàn Đa-mát: địa danh nơi Phao-lô lưu lại, một thành viên của cộng đoàn Đa-mát. Bài tường thuật thứ hai như dung hoà giữa bài tường thuật thứ nhất và thứ ba. [7][7]


Tuy nhiên, phải đợi cho đến công việc nghiên cứu của khoa chú giải hiện nay mới có thể nhận chân đúng giá trị của những dị biệt nầy. Thánh Lu-ca và thánh Phao-lô không là một sử gia, các ngài không chỉ trình bày lịch sử của một biến cố, nhưng cố gắng khám phá ý nghĩa mà biến cố chứa đựng. Chính nhờ ý nghĩa của biến cố được khám phá và được phơi bày mà thực tại lịch sử của biến cố được hiểu biết sâu xa hơn. Hơn nữa, biến cố nầy lại là một sự can dự của Thiên Chúa vào trong đời sống của một con người, và đối với Lu-ca, vào trong đời sống của Giáo Hội. Vì thế, với tư cách nhà thần học, Lu-ca tìm cách khám phá làm thế nào Thiên Chúa đã hướng dẫn biến cố nầy để làm thay đổi tận căn con người nầy, Ngài hành động như thế nào trong cõi thâm sâu của con người, và con người đã đáp trả tiếng gọi của Ngài như thế nào. Vì thế, cách thức mà thánh Luca thu thập các chất liệu, cách thức mà ông phối hợp và sắp xếp, nghệ thuật mà ông tái tạo câu chuyện rõ ràng phản ảnh những xác tín thần học của riêng ông.


Nói tóm lại, những tương đồng của sách Công Vụ với những chứng liệu của thánh Phao-lô chứng thực rằng biến cố mà Luca tường thuật có một nền tảng lịch sử vững chắc, trong khi những dị biệt cho thấy quan điểm thần học riêng của thánh Lu-ca. Vì thế, chúng ta có thể nói là có hai Thần Học khác nhau về biến cố trên đường Đa-mát: Thần Học về Giáo Hội của tác giả sách Công Vụ Tông Đồ và Thần Học quy Kitô của Thánh Phao-lô. Hai nền Thần Học nầy không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau để giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn và phong phú hơn ý nghĩa hành động Thiên Chúa trên thánh Phao-lô, nhà truyền giáo vĩ đại và trên Giáo Hội, tiếp tục sự nghiệp của Ngài. Lúc đó, những dị biệt kia thật qu‎ý báu và đáng trân trọng giữ gìn biết bao!

 

Câu hỏi thảo luận:


Khi so sánh ba bài tường thuật về một biến cố trên đường Đa-mát (Cv 9,1-19; 22,3-21; 26,9-18), chúng ta nhận ra mức độ tăng dần theo từng bản tường thuật. Thế nào là dụng ý của tác giả ở mức độ tăng dần nầy? Khi so sánh đối chiếu cách trình bày biến cố Đa-mát trong sách Tông Đồ Công Vụ và trong các thư của thánh Phao-lô (1 Cr 9,1; 15,8-10; Pl 3,4-14; Gl 1,11-23), chúng ta gặp thấy những tương đồng và dị biệt. Những tương đồng và dị biệt nầy muốn nói lên điều gì?


Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Sức khoẻ gia đình :

Người cao tuổi và những hội chứng thường gặp

 

Một số hội chứng hay gặp khi đã có tuổi, làm cho họ băn khoăn lo lắng, ít nhiều đều có ảnh hưởng đến sức khỏe. Khi bị những hội chứng này nên đi khám bệnh, báo cho bác sĩ biết để được điều trị kịp thời.

Suy tuần hoàn não

Mạch xơ cứng đưa máu lên não kém có những biểu hiện: hay quên, quên tên người quen, quên những việc gần nhưng lại nhớ những chuyện đã rất xa xưa hồi còn niên thiếu. Thường gọi là quên gần, nhớ xa, ù tai, hoa mắt, chóng mặt nhất là khi ngồi dậy hoặc đứng dậy. Tập trung tư tưởng lâu không được, dễ đau đầu, thay đổi tính tình, dễ xúc động, ngủ ít, giấc ngủ không đều. 

U phì đại tuyến tiền liệt

Đi tiểu khó, tiểu lâu, tiểu không hết, có khi tiểu buốt, nhịn tiểu không được lâu, tia nước tiểu nhỏ, chẻ đôi, ngắt quãng.

Thiểu năng mạch vành tim

Hoặc có cơn đau ngực điển hình: đau nhói vùng tim (ngực trái), xiên lên hàm, xiên ra tay trái, thường kèm theo khó thở. Đau thường xảy ra lúc làm việc nặng (lên cầu thang, mang nặng) nhưng cũng có thể đau về đêm lúc đang ngủ phải thức dậy vì đau ngực trái. Người mập, người tăng huyết áp thường hay bị, nhưng người gầy có cholesterol cao cũng bị. Hoặc không có những cơn đau điển hình mà chỉ điện tim mới phát hiện được.

Thoái hóa các khớp

Thường là cột sống, 2 khớp gối, các khớp đốt ngón tay. Hay đau vào buổi sáng ngủ dậy, đau, cử động rất khó khăn, vận động một lúc giảm đau dần và hết đau trong ngày, đêm nằm nghỉ không đau. Khi cử động khớp gối có tiếng lục cục.

Đau vai, cánh tay

Đau khớp vai, lan xuống cánh tay, bóp mạnh cơ thì dễ chịu. Đau âm ỉ, hạn chế cử động cánh tay, khi bất ngờ làm một động tác nhẹ cử động cánh tay có thể rất đau. Đau một bên vai và có thể cả vai bên kia đồng thời hoặc trước hoặc sau. Thường lúc đầu đau nhẹ, dần dần đau giảm và tự hết sau 8 tháng đến một năm. Không để lại di chứng, lúc mới đau bao giờ cũng cần khám bác sĩ để chụp X-quang khớp vai và phổi (để phòng bỏ sót ung thư đỉnh phổi).

Rối loạn tiền và sau mãn kinh ở phụ nữ

Có những cơn bốc nóng lên mặt trong ngày và có khi trong đêm; thường vào giờ nhất định vào ban đêm, cơn vã mồ hôi. Có những cơn tăng huyết áp bất thường nên đi khám nhưng không nên hốt hoảng, có thể một thời gian rồi khỏi.

Viêm bàng quang ở phụ nữ sau mãn kinh

Thường bị từng đợt tiểu rát, tiểu bốt do bị nhiễm khuẩn, cần đi khám.

Tóm lại sức khỏe tạo ra mọi nguồn vui khác. Biết cách giữ gìn sức khỏe là một điều cần thiết cho mọi người, đặc biệt là cho người cao tuổi. Bây giờ là lúc chúng ta, lớp người cha ông làm lại những điều mà chúng ta đã từng nhắc nhở con cháu khi xưa: tập ăn, nằm, ngồi, nghỉ để bản thân chúng ta có thể bền bỉ dẻo dai, ít ốm đau, giúp kéo dài tuổi thọ. Đối với tuổi già, không có một niềm vui nào lớn hơn là sống khỏe mạnh, sống lâu và sống có ích.

Theo SK&ĐS

Mục lục

TRẺ CON KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI LỚN

 

Mới bừng mắt dậy đã nghe tiếng la bên hàng xóm

 

-          Sáng rồi dậy đi học con !

 

Hai phút sau :

 

-          Sáng rồi ! Dậy đi học ! Trễ rồi!

 

Một phút nữa trôi qua.

 

-          Dậy ! Dậy ! Trưa rồi ! ngủ gì mà ngủ dữ dzậy ! Dậy thôi ông nội !

 

-          U! U ! Con còn buồn ngủ

 

-          Buồn ngủ ! Tao cũng đang buồn ngủ đây !

 

Thằng cu tí muốn dậy, nhưng hình như không kéo nổi chiếc đầu nhắc lên khỏi gối.

 

-          À ! Mày không dậy hả ! Tao đập chết  bây giờ.

 

Giọng của bà má không còn nhẹ nhàng nữa.

 

Cu tí sợ đòn, nhổm dậy. Có lần vì chậm trễ kiểu đó nó đã ăn hai cái phát vào mông.

 

-          Đi đánh rằng rửa mặt rồi vào đây thay quần áo đi học. Còn phải ăn sáng nữa đó ! Nhanh lên.

 

Cu tí lò dò đi vào phòng rửa mặt. Nó chẳng biết đánh răng kiểu nào cho nhanh. Thôi quẹt quẹt vài cái bên ngoài cho khỏi rầy.

 

-          Mặc quần áo vào đi ông tướng ơi ! Sao chậm trễ !

 

-          Tập vở đầy đủ chưa !Bừa bãi quá ! Sao mày cứ vứt mỗi nơi một thứ dzậy !

 

Cũng tội. Buổi tối mẹ đi làm về, bố chưa về. Bố về rồi thì con đã ăn xong và mẹ đã hối :

 

“ Con đi ngủ để còn thức dậy sớm sáng hôm sau”, và sáng nào lúc nó chưa thức, bố nó dã đi làm.

 

Điệp khúc buổi sáng có thể kéo dài hết tuần này sang tuần khác. Cuối tuần còn học thêm nhà cô chủ nhiệm, thầy dạy toán, cô dậy Anh văn. Bố nó còn bắt nó học võ Đại Hàn sáng chủ nhật. Ôi, bao nhiêu thứ chuyện. Thằng nhỏ thấy sao cuộc sống mới bé xíu như nó mà đã bao nhiêu rắc rối. Lớn lên như ba má nó lại cũng tất bật sớm chiều.

 

Một hôm qua nghe ba nó đi làm về sớm nói với mẹ nó “xăng lại lên giá nữa rồi. Mấy ổng nói không phải tăng giá xăng mà là điều chỉnh giá thôi mà. Làm vậy cho hợp với thị trường quốc tế. Dầu thô đã lên hơn một trăm đô la một thùng rồi đó. Xăng bên mình còn rẻ lắm so với bên Úc, bên Mỹ ! Bên mình cũng phải lên cho kịp với người ta chứ. Bên Úc, người ta lên một đồng tư, một đồng tư một lít tức là gần hai chục ngàn. Còn bên mình mới có 14 ngàn, chưa bằng một đô la Úc !Rẻ chán. Bố nó nói sao mấy ổng không cho dân ta lãnh lương kiểu Úc ?  (Như quảng cáo nhổ răng kiểu Úc trên Tivi).

 

Nghe nói một gia đình bên đó không kiếm đủ 2000 (hai ngàn) đô la Úc một tuần là bị coi là loại gia đình  low – income và được xã hội trợ cấp.

 

Mẹ nó đổ thêm dầu…Cá tôm bây giờ thứ nào giá cả cũng trên trăm ngàn. Rau củ lên vùn vụt. Lại còn ô nhiễm hoá chất độc hại. Vào siêu thị dành cho khách nước ngoài mà mua thì chắc ăn nhưng tiền chạy xe ôm như ba nó và đi bán áo quần đầu chợ cuối chợ như mà nó thì làm sao mà ra vô siêu thị… sạch với giá cả tính bằng đô la được !!!

 

Bởi vậy bố nó và mẹ nó cứ mong nó lớn cho lẹ, thứ gì cũng làm cho lẹ, học cho lẹ, ăn cho lẹ, thay quần áo cho lẹ… như người lớn để rồi tự lo liệu cái thân. Nó chẳng biết có làm gì được không hay rồi cũng bắt đầu băn khoăn khổ sở như người lớn. Nó quên mất những ngày, nghe ông nội nó kể, một mình ông đi làm thư ký nuôi cả nhà bảy tám người. Thế mà ai cũng thư thả. Chiều tối cả nhà quay quần bên ngọn đèn mà xem ti vi hay nghe nhạc. Chẳng ai hối ai. Chẳng ai rầy rà ai. Chẳng ai càu nhàu cằn nhằn ai cả. Còn sao bây giờ người ta hay la ó nhau quá vậy. Cả ba má nó, rồi lây sang đến anh em nó. Ra ngoài đường ai cũng che mặt kín mít, chẳng ai còn đủ thời giờ thân thiện với nhau một chút.

Cu Tí muốn mình vẫn là một em bé không bị bắt buộc phải làm người lớn quá sớm.

 

Trần Bá Nguyệt 

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

 

CẢM HÓA THIÊNG LIÊNG

 

Charles W. Colson (sinh năm 1931) là trợ lý đặc biệt của Tổng thống Richard Nixon. Do liên can vụ bê bối Watergate (1974), ông phải ngồi tù bảy tháng. Ra tù, ông lập Prison Fellowship (Hội ái hữu nhà tù ) vào năm 1979 và dành hết phần đời còn lại của mình để tận tụy giúp đỡ các tù nhân đang thụ án, cựu tù nhân, và gia đình họ về nhiều mặt, trong đó chú trọng đến việc nâng đỡ đức tin và tâm linh. Ngày nay Hội này trở thành một tổ chức quốc tế có chi hội 112 quốc gia. Năm 1981 Colson giao cho Baker Book House xuất bản quyển Life sentence ( Án Tù chung thân), trong đó ông có thuật lại lần đầu đến thăm nhà tù Humaita ở thành phố  São José dos Campos, thuộc ban São Paulo, nước Brazil.

 

Trước kia Humaita do chính phủ trông coi, ngày nay nó do chi hội Prison Fellowship ở Brazil điều hành theo nguỵên lý tình yêu của Chúa và lòng tôn trọng con người. Nơi đây không có lính gác vũ trang hay biện pháp an ninh ứng dựng kỹ thuật cao. Nhà tù chỉ có hai nhân viên làm việc trọn thời gian. Công việc nhà tù được phân cho 730 tù nhân đang thụ án vì các tội cướp giật, hành hung, mua bán ma túy, giết người. Mỗi tù nhân chịu trách nhiệm về một bạn tù. Mỗi người được chọn một người ở ngoài nhà tù làm cố vấn trong thời gian thụ án lẫn sau khi ra tù. Trong tù họ được học giáo lý và tu dưỡng nhân cách.

 

Khi Colson đến, mở cổng cho ông vào là một tù nhân có nụ cười tươi tỉnh. Đi thăm nhà tù, Colson nhìn thấy mọi nơi đều sạch sẽ, tù nhân hiền lành và làm việc chăm chỉ. Trên các bức tường là những câu Kinh Thánh và châm ngôn khuyền thiện. Chỉ có 4% cựu tù nhân Humaita tái phạm, trong lúc tỷ lệ này là 75% ở các nhà tù khác tại Brazil. Vì sao Humata lập được thành tích kỷ lục này ? Colson viết :

 

“Tôi có được câu trả lời khi người tù dẫn đường đưa tôi  thăm một phòng biệt giam. Người tù nói nơi ấy lâu nay vẫn luôn cầm giữ một người duy nhất. Đến cuối hành lang dài, tra chìa khóa vào ổ xong, người tù còn hỏi : Ông vẫn muốn vào xem chứ ?

 

Tôi nôn nóng đáp : Hẳn nhiên rồi. Tôi từng tới nhiều phòng  biệt giam trên khắp thế giới.

 

Người tù từ tốn đẩy cánh cửa to sầm mở toang ra, và tôi nhìn thấy người tù mãi mãi vẫn chịu biệt giam trong đó : pho tượng gỗ mỹ miều đang giăng tay trên thập giá.

 

Người tù dẫn đường cho tôi trầm giọng xuống : Chúa đang  hy sinh đời mình để cứu lấy cuộc đời còn lại của chúng tôi.

 

Dũ Lan Lê Anh Dũng

Mục lục

 

 

 

 

 

 


 

[1][1] B. NDIAYE, La conversion de Paul, art. p. 1.

[2][2] A. LOISY, Les Actes des Apôtres, Paris,1920, p. 394.

[3][3] G. KLEIN, trích từ: G. Lohfink, Conversion de Paul, tr. 36.

 

[4][4] G. LOHFINK, Conversion de Paul, traduction de Jean-Louis Klein, Cerf, 1967, p. 128.

[5][5] A. BISPING, trích từ G. Lohfink, Conversion de Paul, tr. 40.

[6][6] F. J. FOAKES-JACKSON, The Acts of the Apostles, p. 325.

[7][7] E. HIRSCH, trích từ G. Lohfink, Conversion de Paul, tr. 52-54